LK "CHUYỆN BA MÙA
MƯA & MƯA NỬA ĐÊM" -Phương Anh & Hoàng Thục Linh -NDD
12 TÌNH KHÚC VƯỢT THỜI
GIAN [NEW] -4 PLAYLIST
---------- Forwarded message
---------
From:
Ngoc Tran
<
mngoctran2@gmail.com>
Date: Thu, Jun 11, 2020 at 9:12 AM
Subject: Người Việt Nam Đầu Tiên Đặt Chân Đến Châu Mỹ
Người
Việt Nam Đầu Tiên Đặt Chân Đến Châu Mỹ
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả
người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng,
phủ Lâm Thao, Phú Thọ.
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ
2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng
trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên
chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù
cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc
và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng
đất từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến
đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến
thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến
khi tìm đường về cố hương.
Tuy
không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là
Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về
thành phố Xanh–Phát–Lan–Xích–Cố (phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho
tờDaily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê
Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả
Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và
những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau
ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp
thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ
người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú
dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi
miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người
Canada tên là Mark lập nên.
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công
của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn
bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý
và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên
cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng
Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ
tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải
người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi
Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời
đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào
vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc).
Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để
đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành
viên trong đoàn.
Ở
Hoa Kỳ, Lê Kim vừa tìm vàng, vừa làm nhà báo và được một nhà văn viết trong
cuốn “Đổ xô đi tìm vàng”.
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng
hoàng, tử tế nên rất được kính trọng nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm,
khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc
đường đi.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay
trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi
bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ,
Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ
Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay
đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco,
trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn
là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc
sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện
vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày
8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ
John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San
Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều.
Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu
để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim.
Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước
Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu
nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường
trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở
thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là
người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người
Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê
Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là
người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai
hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục
huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là
Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.
Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy
tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh
Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm
phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy
khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn
lại: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải
tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi Pháp xâm lược Việt Nam. Lê Kim đã
từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương
mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng
học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành
đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi.
Di
tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De
Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất
quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ
có ghi lại lời trăng trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua
Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu
vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm
đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng
Tháp) có khắc đôi câu đối:
“Lòng trời
không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, có
con đường mang tên Trần Trọng Khiêm nối phố Nguyễn Xiển với phố Mạc Hiển Tích.
Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm được hai nhà
văn hư cấu nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết có nhan đề: La
rueé vers l’or(Đổ xô đi tìm vàng) của Rene Lefebre (Nhà Xuất bản
Dumas, 1937) và Con đường thiên lý của Nguyễn Hiến
Lê (năm 1972).Theo Con đường Thiên lý
--
TRAN
NANG PHUNG
__._,_.___
Posted by: Tran Nang Phung