TÌNH KHÚC THÁNG SÁU -Thơ Nguyên Sa -Ngô Thụy Miên -Kim Anh
-NDD
https://www.youtube.com/playlist?list=PLfe9JTtbGcgWL3hmGi_smc_loW9pyFNtn
CA SI KIM ANH PLAYLIST
https://www.youtube.com/playlist?list=PLfe9JTtbGcgUDUqOl0RGitGdBX7GTD21R
---------- Forwarded message ---------
From: Than Kiem <
Date: Tue, Jun 4, 2019 at 3:27 PM
Subject: TÔI CƯỚI VỢ
From: Than Kiem <
Date: Tue, Jun 4, 2019 at 3:27 PM
Subject: TÔI CƯỚI VỢ
TÔI CƯỚI VỢ
Hồi
học lớp đệ tứ (lớp 9 bây giờ), tôi có đọc đâu đó truyện ngắn tựa là "Lấy
vợ miền quê" của tác giả nào tôi quên. Tôi rất khoái truyện ngắn nầy và
định bụng lớn lên mình cũng “lấy vợ miền quê” như tác giả kia.
Nói
thì hơi xấu hổ, vừa đậu Tú Tài phần hai, lúc đó tôi mới 18 tuổi tây tức 19 tuổi
ta mà tôi đã... "muốn vợ"! Con trai mà “muốn" chuyện gì thì thường
vòi vĩnh với mẹ như chiếc xe đạp, đồng hồ, quần áo mới kể cả chiếc solex cáu
cạnh tôi đang chạy mà chỉ hàng “thiếu gia”... ở tỉnh như tôi mới có.
Những
thứ đó tôi đều manh dạn nói với mẹ và lần nào cũng vậy, mẹ tôi không cần suy
nghĩ mà “ô kê” liền. Còn cái vụ "muốn vợ" nầy, tôi có miệng mà chẳng
thốt nên lời! Tôi định bụng lúc nào mẹ vui và khi chỉ có hai mẹ con ở nhà thì
tôi "tâm sự" liền. Mẹ lúc nào lại không vui!
Vả lại, tôi là con một trong gia
dình, chỉ cần ba tôi đi uống cà phê hay đi đâu đó thì có biết bao nhiêu dịp…
may!
Thế mà khi thấy mẹ ngồi, tôi vừa xề
lại thì bao dũng khí đã tiêu tan! Bao lần như vậy, dường như bà để ý,
giọng ngọt ngào cố hữu:
- Gì đó con trai cưng? Muốn gì nữa
phải không?
Lúc đó, tôi chỉ cần một “gờ-ram”
dũng khí, thêm một tiếng "vợ" sau tiếng "muốn" của me
tôi thì đòn cân cục diện đâu lại vào đấy rồi.
Đàng nầy tôi lại nhút nhát, rụt rè!
– Điều nầy, vốn không phải là bản tính của tôi:
- Dạ... có "muốn" gì đâu
mẹ!
Trả lời xong, tôi thấy ấm ức, giận
mình sao quá yếu gan! Thì may thay, vợ chồng anh hai Trân tới chơi. Anh với tôi
là con bác ruột tôi. Hai Trân là con trai trưởng của bác hai, còn cha tôi đến
thứ chín nên ảnh nhỏ hơn cha tôi chẳng bao nhiêu. Anh rất vui tính, cởi mở, lẹ
làng, sốt sắng. Cái gì cũng chịu hoạch toẹt, không chịu úp úp mở mở nên
có khi hơi lố lố. Vậy mà tôi lại quý mến anh ở điểm nầy nhất, mới lạ!
Chưa chào hỏi mẹ tôi, anh nhìn tôi
bôm bốp:
- Đậu (Tú Tài) rồi hả mậy? Là người
lớn rồi, cưới vợ được rồi đó nghen!
Thuở đó đậu Tú Tài cũng oai lắm,
kiếm việc làm dễ như chơi. Trong thân tộc có người đậu tú tài là niềm hãnh diện
chung. Nghe anh nói, tôi khoái chí tử, nhưng cũng làm bộ:
- Mới bây lớn mà có vợ gì anh ơi!
- Sao lại “bây lớn"? Hồi tao cỡ
mầy là con cu biết gáy rồi. Mầy hỏi chú chín....
Chị hai thúc mạnh vào hông chồng:
- Nói bậy không hà! Thím chín kìa!..
Chú nó còn nhỏ...
- Nhỏ nhỏ cái gì? Cỡ tuổi nó, tôi có
con rồi!
Tôi mỉm cười, thấy thích anh lạ! Anh
hai quay sang mẹ tôi:
- Thím chín! Em lớn rồi nghen thím!
“Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương” đó thím. Em nó đẹp trai, học giỏi, nhà
giàu mà thím không chịu cưới vợ cho nó là có ngày có người bồng cháu nội về cho
thím nuôi đó!
Chị hai nạt:
- Nói bậy không hà! Cái tật không
bỏ!
Anh hai nói chuyện thường chêm vào
mấy câu chữ nho, những lần đó tôi cũng bực mình vì có câu tôi cũng không hiểu
nghĩa rõ ràng.
Câu anh vừa nói tôi hiểu, xem ra nó
cũng hay đó chứ! Còn chị hai là người phụ nữ nết na, đẹp lại hiền, hay kìm chế
chồng những khi anh quá trớn. Đặc biệt lần nầy, tôi lại thấy chị hơi… quá
trớn!
Mẹ mỉm cười:
- Biết nó chịu không mà cưới?
Tim tôi đập thình thịch. Không ngờ
diễn tiến lại thuận lợi như vậy. Mẹ nói thế tức là nếu tôi "chịu" thì
mẹ cưới chứ gì? Ôi con đường... cưới vợ sao mà hanh thông như vậy!
Anh hai quyết liệt:
- Sao lại hổng chịu thím? Hỏng lẽ nó
muốn vợ, nó lại la làng lên sao?
Hồi trước, con muốn vợ, con cũng đâu
dám nói cho má con mà phải nhờ chú chín mở hơi giùm. Thím quên rồi sao?
Quay qua tôi, anh dịu giọng:
- Nè cưng, anh hai hỏi thiệt nghen,
cưng có muốn cưới vợ không?
Phải nói là nhờ anh hai mà lòng tôi
tràn dũng khí. Tôi quyết không bỏ lỡ cơ hội. Chỉ cần tôi nói một tiếng "muốn"
là bài toán có đáp số ngay và bao nhiêu đè nén trong lòng bấy lâu chắc chắn giờ
đây tan biến!,Nhưng như vậy xem phàm phu quá! Tôi cười cười, đợi cho mọi người
chờ một lát, thần khẩu xui tôi phát ra một câu quá tuyệt vời:
- Thì hồi trước anh hai sao thì giờ
em vậy thôi!
Mọi nghười cười rần và mang ý nghĩa
khác nhau. Tôi cười cho... đỡ mắc cở. Chị hai cười xòa góp phần vui; anh hai
cười ngất, cười sặc sụa của người thích chí; còn mẹ thì cười hiền hòa, sung
sướng, lấy tay áo chậm hai khóe mắt rưng rưng. Tôi thấy thương mẹ vô cùng, sà
vào lòng mẹ. Dù là một cậu tú nhưng với mẹ, tôi vẫn thường thích mẹ vuốt
ve như thuở lên ba. Mẹ vò tóc tôi, nói với anh chị hai:
- Bây thấy hôn? Nó làm như còn nhỏ
lắm vậy!
Mẹ hỏi tôi:
- Bộ con có để ý bạn gái nào ở
trường hả?
Tôi lắc đầu. Mẹ bảo:
- Vậy thì mẹ biết ai mà cưới cho
con?
Anh hai nhanh nhẩu:
- Thì làm mai! Hồi trước chú chín
cũng vậy, con cũng vậy. Có ai thương yêu ai trước đâu? (liếc sang chị hai)
Chừng về ở chung cũng khoái thấy mồ...
Anh phủi bàn tay chị hai định nhéo
vào hông anh:
- Vậy chớ hỏng phải sao?
Rồi quay sang tôi, anh lại ngọt ngào
và xôm tụ:
- Nè, bây giờ em chưa quen ai phải
không? E hèm! Hồi trước anh cũng vậy thôi. Có sao? Nhưng em phải cho thím chín
và anh chị hai đây biết mẫu người em ưng thế nào thì ở đây mới kiếm cho em được
chứ! Thí dụ, hồi trước anh ra tiêu chuẩn là phải vừa đẹp, vừa hiền, vừa có chút
học vấn.
Em thấy hôn, chị hai đúng bon tiêu
chuẩn đó, anh thấy là khoái liền. Hề hề…!
Tôi thấy mặt chị hai đỏ lên vì sung
sướng:
- Nói không biết mắc cỡ....
Sẵn đà, tôi tiếp:
- Mà phải ở miệt vườn nữa em mới
chịu.
Anh hai có vẻ cụt hứng, còn mẹ thì
có vẻ vui:
- Phải đó à bây, con gái ở vườn nó
nết na, thùy mị, giỏi giang.
Anh hai cười, lại xông xáo:
- Trúng tủ bả rồi! Mà cũng dễ thôi!
Thím bán tạp hóa lớn, mối mang miệt vườn biết bao nhiêu, nhờ họ mối lái giùm.
Chị hai:
- Sao hăng hái dữ! Mai mốt anh hai
chịu lạy đó nghen!
- Tất nhiên! tất nhiên!
Thói thường người ta tin tưởng vào
những gì mình hy vọng và sợ mất những gì mình có. Mẹ đã xong rồi, còn ba thì
sao? Ba thường hay chiều ý mẹ dù đôi khi ý mẹ có đôi chút ông chẳng hài lòng
nhưng đó là những việc nhỏ đời thường, còn đây là "hôn nhân đại sự",
liệu ba có còn chiều mẹ hay không?
Ngày hôm sau, tôi thấy ba có vẻ khác
khác - vậy là mẹ nói với ba rồi! Ba ít nói, có chiều nghĩ ngợi. Khi giáp
mặt tôi, ba mỉm cười khó hiểu. Phúc hay là họa đây!
Rồi ngày tôi chờ đợi cũng đến. “Phái
đoàn” gồm ba mẹ, anh chị hai và tất nhiên có vai chánh là tôi. Thật khó tả được
bao cảm xúc bồn chồn lo lắng, hồi hộp, đủ thứ lộn xộn trong lòng tôi. Mẹ tôi cứ
dặn dò đủ mọi việc, hết chuyện nọ tới chuyện kia, đến nỗi khó mà nhớ hết; còn
anh hai thì cứ lải nhải bên tai "bình tỉnh, bình tỉnh, đừng có run".
Nhà ông nhạc tôi (tạm gọi vậy) ở xã Ngũ Hiệp, cách thành phố Mỹ Tho 30 cây
số về hướng tây. Chợ Ngũ Hiệp nằm bên kia sông, muốn qua phải nhờ một phà nhỏ.
Từ chợ, theo lời bà mai, chúng tôi
phải đi bộ thêm gần ngàn mét nữa. Nghe vậy anh hai nói với tôi:
- Như vậy là "vườn trong vườn"
rồi phải không cưng? Tiêu chuẩn một đạt hai trăm phần trăm rồi hén!
Chị hai cau mặt:
- Cái ông nầy lúc nào cũng đùa được.
Thật vậy, đây là vùng trù phú đất
đai, cây lành trái ngọt. không biết cơ man nào là cây trái quả mọng trĩu cành!
Cam, bưởi, sa bô, dừa, vú sữa, nhãn, chôm chôm..., nhất là sầu riêng, cây nào
cây nấy chân tay đeo đầy nghẹt quả, theo gió thơm lừng. Bà mai chỉ tay về căn
nhà ngói kiểu xưa (kiểu "chữ đinh") nói:
- Nhà đó đó.
Tất cả dừng lại “hội ý”. Mẹ khẩn
trương thấy rõ, lại dặn dò:
- Nhớ những gì mẹ dặn nghen con!”
- Dạ!
Anh hai cũng thì thào:
- Nhà cất kiểu nầy mà gặp ông già củ
tỏi thì mệt lắm à nghen!
Chị hai nạt nhỏ:
- Ông lo cái miệng ông đó. Vô đó nói
bậy đi!
Bà mai vô trước, mẹ sửa lại áo quần
tôi chưa xong thì có người ra mời vào. Giờ phút nầy tôi càng thấy tình mẫu tử
bao la như thế nào. Mẹ hồi hộp như sắp bước vào nơi hang hùm nọc rắn không
bằng, lại điệp khúc "Nhớ nghe con!" phát ra!
Vừa vào cổng, tôi bị hốt hồn vì hơn
hai chục cặp mắt, đủ hạng tuổi, nhiều nhất là trẻ em chăm chú vào tôi. Một bà
trạc tuổi mẹ có lẽ thông cảm được điều ấy, bèn rầy đám nhỏ:
- Nè, mấy đứa làm gì tụ tập lại đây
dữ vậy? Có đi hết không?
Đám trẻ tản đi vài bước rồi bẽn lẽn
đứng nhìn. Phòng khách được bài trí hai bàn. Bàn giữa gồm ba mẹ tôi, bà mai,
ông bà nhạc và hai vị cao niên. Bàn bên có anh chị hai tôi và bốn người
bên gái cùng trang lứa.
Phần tôi nghe lời mẹ là không được
ngồi mà đứng sau ghế cha mẹ, hai tay xếp lại để dưới bụng (nếu đã mời trà
xong), tư thế y như lính hầu ở phủ huyện hay các thái giám ở cung đình hầu hạ
đức vua!
Theo cách nói chuyện… lại có dịp
đứng trước nhạc phụ mẫu, tôi biết ông bà là người cởi mở, dễ tính. Câu chuyện
của hai "sui" càng lâu càng khởi sắc tốt đẹp. Dần dà khách khí không
còn mà như đã quen nhau từ trước vậy.
Bỗng Ông nhạc gọi:
- Con hai đâu, châm trà mới đi con!
Một tiếng "dạ" thảnh thót không
kém Điêu Thuyền thời Tam Quốc từ nhà dưới vọng lên làm tim tôi rộn ràng. “Phái
đoàn” nhà trai ai cũng hồi hộp chờ đợi bởi ai cũng biết bảo “châm trà” chẳng
qua là lời nói khéo cho con mình ra chào để nhà trai “coi mắt” đó thôi!
Mẹ quay lại nhìn tôi mỉm cười, thầm
bảo ”hãy xem kỹ vì thời gian không lâu”. Tôi chưa kip mỉm cười với mẹ thì rèm
hoa lay động, một kiều nữ vận bộ bà ba, không phấn không son mà má phấn môi
hồng. Tóc dài phủ long gọn gàng bởi chiếc kẹp vàng có đính bông hồng chói lọi.
Thoạt trông, tôi giật nẩy người đến nỗi bố vợ nhìn thấy. Đợi giai nhân
châm trà xong, ông vội bảo:
- À quên nữa, cháu qua bên ngồi uống
nước hay cứ ra ngoài dạo cho thoải mái.
Mẹ lại quay ra tôi, nhướng mày thầm
bảo “hãy đi đi con” vì thực ra, ông nhạc cũng ngầm ý cho tôi và vợ tôi gặp nhau
để “tìm hiểu”, dù thời lượng ít oi nhưng nếu tri túc ắt tiện túc mà thôi! Mọi
sự đều được người lớn sắp xếp có bài có bản và có màn có lớp hẳn hoi!
Không khí bên ngoài thực thoải mái.
Nhiều loại cây trái lớn nhỏ thi nhau che rợp ánh mặt trời làm mát rượi cả một
không gian rộng. Vài tia sáng yếu ớt cố gắng chen vào đất tạo thành những đóm
trắng lưa thưa đây đó tựa rải hoa. Mùi sầu riêng thơm lừng. Hàng sa-pô thẳng
tắp, trái nặng sai oằn. Mấy nhánh ổi cho trái bóng láng no tròn, rục mềm rơi
rụng tứ tung, tỏa hương thơm bát ngát. Chim hót líu lo, bướm vờn thẳng cánh. Đàn
ong tranh nhau hút mật của trăm ngàn hoa đủ sắc đủ màu. Rõ ràng là vùng đất
lành thừa mứa cây lành trái ngọt.
Bên sau một giọng êm đềm:
- Biết người ta ưng hay không mà dám
đi hỏi vậy?
Tôi quay lại, thì ra là vợ tôi (tạm
gọi vậy) mà cũng là Vi, người đã làm tôi kinh ngạc đến đánh thót cả người khi
nãy!
Vi là bạn học cùng lớp với tôi hồi
năm đệ tứ. Hồi đó, lớp đệ tứ được xem là cái “mốc” của sự chia tay bởi con
trai, nếu thi rớt thì cha mẹ thường cho nghỉ để học nghề, còn thi đậu (cấp bằng
Trung Học Đệ Nhất Cấp) thì cũng mỗi người một hướng đi: Vào sư phạm hoặc ngành
nghề nào đó hoặc học tiếp ba năm nữa để lấy Tú Tài rồi lên đai học. Con gái thì
ít người được học đến chốn đến nơi, rớt hay đậu cũng thường bị cha mẹ cho nghỉ
mà lo phụ việc nhà, viện lẽ con gái “học cao” khó có chồng! Vi cũng nằm trong
số phận nầy. Bởi vậy, cuối năm đệ tứ, chúng tôi thường trao nhau lưu bút, mọi
người đều nắn nót tuồng chữ cho trang mình, thường tặng cả ảnh, dán vào giữa
trang viết, dưới đề:
"Thương
nhau mới tặng ảnh nầy
Để làm
kỷ niệm những ngày xa nhau
Dù
cho ảnh có phai màu,
Cũng đừng xé
bỏ mà đau lòng người!”
Không biết bốn câu thơ ấy là của tác
giả nào, sáng tác tự bao giờ mà đến nay, thỉnh thoảng tôi lại thấy sau bức ảnh
”tặng nhau” của các em cũng có đề như vậy.
Hơi lạc đề nhưng nói thêm cho vui:
Hồi đó tôi cũng có quyển lưu bút, tất nhiên khi ai nhận thì cũng nắn nót từng
chữ và giữ sạch sẽ như nói ở trên. Khi tôi đưa cho thằng Nhứt, ngày sau nó trả
(thường thì vậy), nó viết vào trang đôi mấy chữ tổ bố: “Lưu niệm làm cái xê
bình phương gì?" (2) rồi láu cá ký tên giáp cả hai trang giấy!
Tôi xem giận run. Cự nó, nó cười:
“Để sau nầy mầy nhớ tao”.
Tôi nghe cũng xìu lòng. Quả thật,
đến giờ, nó là người tôi nhớ nhất.
Và đến ngày cuối, chúng tôi tổ chức
tiệc liên hoan cuối khóa tại lớp. Văn nghệ xung quanh các bài hát về “mùa
chia tay”, “tạm biệt”, “nỗi buồn hoa phượng”... Tôi có sở trường ngâm thơ, ngâm
hai bài thơ Đường luật, bài đầu của thầy H.C, giáo sư sử địa (3), bài nầy tôi
chỉ nhớ hai câu cuối:
“Rồi đây nếu
chẳng sau mùa phượng,
Tất cũng mai
kia ở chợ đời!”
Và bài họa của tôi:
"Việc
cũ, ngàn sau vẫn đổi dời.
Chút tình
tâm huyết nói sao vơi?
Luyến lưu
kẻ ở đôi dòng lệ,
Tiếc
nhớ người đi một góc trời.
Chín tháng
vui buồn trong một lớp,
Vài giây ly
biệt rẽ ngàn khơi,
Đường mây
một kẻ hanh thông bước,
Một
kẻ lang thang giữa chợ đời!
(Thơ Kha
Tiệm Ly)
Đám con gái mắt đỏ hoe, có đứa khóc
thành tiếng. Chúng tôi lai tặng quà lưu niệm cho các bạn “nghỉ luôn”. Tôi tặng
Vi cái kẹp tóc bằng vàng 14 (tôi là... “thiếu gia” mà! Vàng hồi đó rẻ lắm, đàn
bà con gái chẳng thấy ai đeo, có đeo thì cũng sơ sài, đeo nhiều mắc cở, bị coi
là “quê”, không thấy ai đeo cục cục như giờ. Vi tặng lại cho tôi cây bút Pilot nắp
vàng, loại cao cấp nhất thời ấy.
- Sao không trả lời?
Vi nghiêm trang như thuở nào, tôi
hơi chột dạ:
- Thật lòng tôi không ngờ mình đi
hỏi cưới Vi. Đã bao năm rồi, vả lại lúc đó, mình còn nhỏ cả mà!
- Bộ mấy năm qua không nhớ chút gì
về Vi sao?
- Vẫn nhớ về người bạn nhỏ hiền
lành, nhiều nước mắt.
Vi vừa đưa tay rút cây viết trên túi
áo tôi, vừa nói:
- Xin lỗi nghe, cho Vi mượn.
Rồi xoay cán viết, nhìn những dòng
chữ khắc trên ấy, Vi có vẻ xúc động:
- Vẫn còn giữ của Vi à?
Tôi không đáp, nhìn hai rèm mi chơm
chớp, tôi thấy Vi đẹp não nùng. Tôi nắm lấy tay Vi:
- Không ngờ lại gặp lại Vi. Chẳng
phải không có duyên số hay sao? Vi đồng ý nhé!
Vi tủm tỉm cười:
- Nếu em không ưng thì sao?
- Thì anh về nhưng xin gởi trái tim
anh lại.
Lại cười:
- Rõ là thi sĩ! Em đã đồng ý từ khi
bà mai nói chuyện với ba mẹ, đâu phải đến bây giờ.
- Không biết mặt làm sao ưng?
Vi kéo mái tóc về phía trước ngực:
- Khờ quá đi! Mọi người ở đây ai
không biết con trai một của tiệm tạp hóa Vạn Phát chứ em thì rành lắm. Vị “công
tử” ấy còn tặng cho em chiếc kẹp xinh đẹp nầy nữa phải không?
Trên đường về, mẹ luôn miệng với ba:
- Con nhỏ xem nết na và lịch sự (4)
ghê ông há?".
Lại lo ngại:
- Hổng biết nó có ưng thằng con trai
cưng tôi không nữa?”
Nãy giờ tôi lặng thinh, nhớ lại
những lời nói của Vi mà thấy lòng hân hoan lạ nhưng thấy mẹ cứ lo lắng mãi, tôi
mới nói:
- Chắc ăn rồi mẹ ơi! Mẹ đừng lo!
Mẹ nghi ngờ. Anh hai nói:
- Hồi nãy, ngoài vườn tụi nó nói
chuyện, chỉ cần khi về, đá lông nheo một cái là kể như xong. Thím lo gì!
Ba châm vào:
- Hồi trước bả cũng vậy, sao bả mau
quên quá!
Không biết mẹ đánh hay phủi bụi cho
ba:
- Cha già mất nết!
Thế là chậm lắm khoảng một tuần,
mươi ngày tôi đều đến thăm nhạc gia, nhạc mẫu. Ba mẹ vợ tôi đều nhân hậu,
nghiêm khắc với con cái nhưng xem chừng ”dễ” với thằng rể tương lai.
Trước khi đi, ba tôi dặn: Con đến
đó, thấy cái gì làm được thì làm chứ đừng lấy mắt ngó là không được! Ngày xưa,
trước khi cưới, phải làm rể ba năm: Chẻ củi, vác lúa, cày bừa, làm đủ thứ nặng
nhọc chứ chẳng phải chơi đâu!
Nhưng tôi biết cái gì mà làm, mà
phụ? Lần đầu đến, tôi thấy ba vợ tôi đang chài cá, thấy tôi sựng rựng, ông hiểu
ý, nói:
- Con đứng chơi, ba vãi vài chài nữa
ba vô.
Thế coi sao được! Đợi mỗi khi ba kéo
chài lên, tôi phụ gỡ cá mà có được đâu! Tôi đụng tới con nào thì con ấy giãy
rồn rột, rách cả tay, có khi phóng lại xuống mương trong lúc ông bỏ vào giỏ lia
lịa như bỏ đá vào vậy!
Một lần thấy ông đang chiết nhánh
cây, cái nầy tôi càng mù tịt nhưng cũng có việc làm là... đưa dây cho ba tôi
cột “bầu”, cái công việc không cần người phụ tá!
Ba vợ tôi rất điệu đời, ông thường
bảo vợ tôi dắt tôi ra vườn xem có “cái gì nó thích thì hái nó ăn”. Tôi biết ba
tạo điều kiện cho chúng tôi chuyện trò. Ông dư hiểu bởi nói tiếng là thăm cha
mẹ vợ nhưng chủ yếu của chàng rể tương lai nào cũng là thăm... vợ cho đỡ nhớ mà
thôi.
Nếu không, tại sao mỗi lần đến thăm
mà cha mẹ vợ đi vắng thì chàng rể lại hớn hở trong lòng!?
Vườn nhà vợ tôi đủ loại cây nên có
trái quanh năm, chúng chen chúc nhau nên chỉ cách hơn mười thước là không thấy
dáng người. Tôi có cảm tưởng như hoàng tử gặp công chúa trong rừng vậy! Đến
hàng dừa tơ, quày ôn trĩu trái màu vàng rực, sai oằn đụng tới mép mương, Vi đưa
tôi dao, bảo:
- Chặt dừa uống nhé!
- Trái nào đây?
- Thì tùy chọn.
Khổ sở lắm tôi mới đem được hai trái
dừa rời quày được. Dùng dao chặt phần đầu có cuống. Dao bén ngót, tôi phạt năm
bảy nhát liền mà vỏ dừa chỉ dập dập, trầy trầy, tung mấy miếng dăm! Vi cười
khoe hai hàm răng đều như hạt bắp:
- Để nô tì giúp cho, thưa công tử!
Giành lấy dao, Vi chỉ phập ba nhát
nhẹ nhàng mà vỏ dừa tách ra từng mảng lớn, nhát thứ tư, nhẹ hơn, chạm vào gáo,
Vi thuần thục lách nhẹ lưỡi dao để lộ phần “cái” trắng bóc mịn màng, bao quanh
phần nước sóng sánh trong veo! Một tay đưa dừa cho tôi, tay kia chỉ chỉ vào
trái dừa bảo:
- Chặt dừa phải chặt đầu lớn nầy
nầy. Lưỡi dao phải để hơi xiêng. Ai đời ở trên bổ xuống... 90 độ. Làm sao đứt
được?
Lợi dụng, tôi nắm lấy cổ tay tròn
trịa mịn màng của Vi, ghé mũi xuống hít một hơi dài. Vi vẫn để yên nhưng bặm
môi:
- Có thấy con dao ở đây không thì
bảo?
Rồi cùng cười, tôi hít mũi chọc:
- Còn ngọt hơn cả nước dừa!
Đến địa phận chuyên canh sầu riêng.
Ôi! hàng hàng thẳng tắp. Không biết cơ man nào là trái đậu trên cành! Toòng
teng nhỏ to đủ cở, lủng la, lủng lẳng tầng thấp tầng cao, xem vô cùng ngoạn
mục. Tôi hỏi:
- Nghe nói sầu riêng chỉ rụng về
đêm, phải không?
- Sao lạ vậy?
- Thì ... trời khiến để đừng bể đầu
người!
Vi cười ngoặt ngoẽo:
- Sao trái dừa vẫn rụng ban ngày? Bộ
trái dừa không làm bể được đầu người? Chủ vườn nói vậy để cho mấy thằng ăn trộm
không dám lẻn vào đó thôi!
Rồi chỉ vào phía trước, bảo:
- Có hai trái rụng kìa! Anh lại lượm
đi! Coi chừng nó "bịch" một cái là hết có vợ đo.o..ó!
Tôi nhìn lên, thấy hàng trăm trái
lòng thòng, gai tua tủa, giống như những quả chùy của các võ tướng ngày xưa.
Nói dại, nếu nó mà "phịch" xuống một cái như lời Vi nói thì dù không
bể đầu, mặt mũi chắc cũng khó coi! Dợm chạy đi, bỗng luồng gió quái ác từ đâu
lùa tới, bèn chột dạ, tôi dừng lại, Vi cười ngất:
- Coi vậy mà cũng sợ mất vợ hén!
Tôi chữa thẹn:
- Vậy chớ vợ như Tây Thi thì chết
sao đành!
Má Vi càng đỏ thêm, nắm tay lại giá
giá vào tôi:
- Cái tật nịnh.......
Tôi vừa dặt hai trái sầu riêng xuống
thì Vi bảo:
- Tách ra đi!
Nói đoạn lại bờ rào tìm hái những
nhánh bông. Tôi lui cui lấy dao chặt phình phịch vào đầu lớn trái sầu riêng,
dao cũng để xiêng một góc mà xem ra vỏ sầu riêng còn dai hơn cả vỏ dừa. Thật
tình, tôi ăn sầu riêng có hàng trăm nhưng mỗi lần đều được mẹ bóc sẵn bỏ vào tủ
lạnh nên có biết gì đâu!
Tôi lật qua, lật lại, chợt nhớ tới
cái vỏ sầu riêng mẹ bóc xong đâu có trầy trụa hay mất một góc đàng đầu trái mà
xem ra nó còn nguyên vẹn giống như một chiếc xuồng! Tôi sửa lại rồi dùng
dao bổ theo chiều dọc, cũng chẳng ăn thua! Mệt, tôi định gọi cầu cứu thì Vi đã
đứng sát bên tôi, bụm miệng cười tự lúc nào...
Rõ ràng là Vi biết tôi không làm
được mà cố chọc chơi! Bèn ngồi xuống, lấy dao, vừa làm vừa dạy đời:
- Hồi nãy em bảo công tử “tách” ra
chứ có bảo “chặt” đâu mà làm như bửa củi vậy? Đây nè, chỗ nầy lúc nào cũng có
một khe hở. Chỉ cần để mũi dao vào đây rồi dùng đòn bẩy Ạc-Shi-Met là xong. Làm
rể kiểu nầy mất vợ như chơi.
Tôi bá lấy cổ Vi:
- Giỏi quá, để anh thưởng cho một
cái.
Vi nhắm mắt, lắc đầu quầy quậy:
- H..ô..ông..!
Đợi khi tôi “chụt” xong, Vi mới mở
mắt ra, chỉ tay vào vỏ sầu riêng, nói:
- Cái vỏ sầu riêng nầy mà vô mặt thì
còn hơn té thùng đinh nữa đó!
Lần nào cũng có chuyện tương tự như
vậy, thử hỏi sao tôi không khoái về thăm... ông bà nhạc?
Gần tới ngày cưới, tội nghiệp Vi gầy
thấy rõ. Sau nầy, tôi mới biết là con gái trưởng trong gia đình, Vi lo lắng sắp
xếp mọi thứ, lại nghĩ tới ngày theo chồng, xa mẹ, bỏ em nên đủ thứ tình cảm ray
rức trong lòng. Vậy mà trò chuyện với tôi một hồi, mặt hoa lại rạng rỡ, nói nhỏ
cho tôi vừa nghe như một chuyện gì quan trong lắm:
- Làm rể mà lỏng nhỏng không động
móng tay, cứ đeo sát con gái người ta hoài không sợ bà con họ nói sao?
Ba vợ tôi thường bảo tôi: “Con ở chợ
không quen việc ở vườn. Con cứ về thăm, khỏi làm gì hết, đừng ngại, cứ coi như
ở nhà con”.
Tôi đem lời nầy nói cho vợ nghe, rồi
châm thêm:
- Vậy chứ anh có việc gì để làm?
- Em chỉ cho. Gần tới ngày cưới rồi,
phải có củi để nấu chứ! Hay là anh chịu khó ra chẻ một mớ....
- Ở đâu?
Vi chỉ tay về một hàng củi được chất
ngay ngắn từng ô một, dài chừng... vài chục mét, khúc nào khúc nấy cỡ bắp
đùi... voi. Tôi chột dạ:
- Chẻ hết sao?
Vi làm mặt nghiêm:
- Ừa!... thì tới đâu hay tới đó!
Ngày còn dài mà!....
Tôi xách búa đi mà tác phong rời rã
như Hạng Võ tại bến Ô Giang! Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp, muốn cưới được vợ
thì phải bửa củi, cày bừa… Thì ra lời ba tôi nói chẳng sai, bằng chứng là tôi
cũng không ngoại lệ!
Tôi cởi áo sơ mi máng trên cành
bưởi, còn lại chiếc áo thun ba lỗ trắng tinh, vốn là mô đen của con nhà giàu
mới có áo lót bên trong. Dù là “công tử” nhưng tôi thường tập tạ nên bắp thịt
coi cũng ngon lành.
Tôi đếm thầm: Một, hai “phập!”; một,
hai “phập!” Có cái “phập” làm củi vỡ ra, có cái “phập” thì búa lại dính khắn
vào củi, gỡ ra cũng tróc vảy trầy vi! Khi độ mệt đã choáng váng mặt mày nhưng
còn đủ để nhận được tiếng ông nhạc ở sau lưng:
- Bây làm cái gì vậy?
Tôi quay lại chào ông bà vừa đi xóm
về rồi trả lời với giọng điệu của người vừa lập nên công trạng:
- Dạ, vợ con biểu chẻ củi để khi đám
cưới có mà xài!
- Thôi, thôi! Bây “bị” nó rồi! Đi
vô! Đi vô uống nước con!
- Dạ, để con chẻ thêm một mớ nữa,
ba!
- Củi nầy ba để bán cho lò bánh mì,
đâu cần chẻ! Còn củi dùng cho đám cưới thì để trong nhà kho kia, có xài mười
đám cũng không hết!
Bà nhạc lắc đầu:
- Cái con nhỏ nầy…
Vào nhà bà nhạc rầy Vi:
- Chồng của mầy nó không quen làm
việc nặng. Xúi dại rũi nó trợt chân trợt cẳng thì sao?
Bà nhạc dùng tiếng “chồng mầy”, tôi
thấy ấm áp lạ lùng! Còn vợ tôi thì chúm chím cười, còn liếc qua tôi với ánh mắt
còn bén hơn... lưỡi búa, lại chu đôi môi đỏ au chế nhạo.
Thế là bao mệt mỏi trong tôi biến
mất tiêu!
Phải nói trong đời thường, về sự
thông minh, lúc nào vợ cũng hơn tôi một phép. Khi về làm dâu, vợ tôi đã chứng
minh đầy đủ điều đó. Ngoài sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, vợ tôi còn nhiều đức
tính như hiền hậu, cần kiệm...
Thuở đó, ở thành phố “nhà giàu” mới
có tủ lạnh (ti vi chưa có), còn dưới quê thì tuyệt đối không bởi có điện đâu mà
xài! Vì thế, những ngày đầu, tủ lạnh đối với vợ tôi là một phát minh khoa học
lớn lao, nó đủ công năng nên có cái gì cũng “thồn” vô trong đó. Có lần mẹ tôi
mở tủ lạnh rồi nói với vợ tôi:
- Tô mắm nêm nầy, con đừng có để vào
đây, nếu không tất cả cái gì trong nầy đều có mùi mắm nêm hết.
Chỉ chờ có dịp nầy, tôi cười hí hí:
- Trái cây mà có mùi mắm nêm ăn càng
ngon chứ sao mẹ?
Mẹ cười, còn vợ tôi cứ đem cái sở
trường là bắn nửa mắt vào tôi. Tôi khoái chí, nói theo kiểu đá banh thì
“gỡ” được một nhưng dường như chỉ có một mà thôi!
Khi con chúng tôi đã lớn, tuổi có
thể về quê thăm ngoại một mình, thế mà một tối cả nhà xem ti vi, không phải
nhằm đoạn hài mà vợ tôi cười ngất. Con hỏi, “sao tự nhiên mẹ cười?” Một lát vợ
tôi mới trả lời được:
- Mẹ thấy bộ tướng ông thái giám
đứng khúm núm kia giống "mấy thằng cha“ lần đầu coi mắt vợ quá!” Hi! Hi!
Biết bị xỏ ngọt nhưng tôi biết gì
hơn ngoài làm...thinh! May sao đến chương trình quảng cáo, quảng cáo tủ lạnh,
tôi nói tỉnh bơ:
- Tủ lanh đời mới coi bộ tốt à
nghen! Nó tự khử mùi, dù “mấy con mẹ” ở vườn có để mắm nêm vô đó cũng không sợ
hôi. Ha! Ha!...
Tức thì vành tai tôi bị kéo ra cả
thước, tiếp theo là một giọng tru tréo, muốn nổi da gà:
- Trời..u.u..i! Chuyện cũ nhắc hoài!
Nhắc hoài!
Vậy đó, “chuyện xưa” thì vợ tội nhắc
được, còn “chuyện cũ” tôi nhắc thì như bị muốn nhai xương!
Có vợ miệt vườn, miệt quê là vậy đó!
Thái Quốc Mưu
--
TRAN
NANG PHUNG
__._,_.___