Hồ Ðiệp (1930-1988),
tiếng vàng trong không gian
Viên Linh
Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp -
biệt danh do thi sĩ Ðinh Hùng đặt cho cô trong chương trình Thi Ca Tao Ðàn của
đài phát thanh quốc gia từ 1954 - đã vĩnh viễn biệt tăm trong cuộc hành trình
đường bộ rời xa tổ quốc qua ngả Cao Miên vào một ngày Tháng Năm âm lịch Mậu
Thìn (1988) - để xa lánh cộng sản, không còn để lại chút gì của bản thân trong
cát bụi, nhưng người hoa khôi ấy của Nghệ thuật Ca trù Việt Nam, giọng ngâm
vàng ngọc ấy của thi ca đất nước, còn mãi mãi trong không gian, nếu thỉnh
thoảng lại có người muốn “nghe sênh phách thời Hồ Ðiệp,” hay muốn “ngâm thơ
kiểu Tao Ðàn.”
Sáu bảy năm trước người viết bài này đã tổ chức một buổi Tưởng Niệm Tao Ðàn tại
hội trường Người Việt, nơi chỉ có khoảng 300 ghế, mà người đến dự tới hơn 400,
phải đứng vòng quanh các cửa bên ngoài. Một băng thơ Hồ Ðiệp đã được phát lại,
dù chỉ nửa bài, thật ra dù chỉ nửa câu, người ta đã thấy bướm mộng bay về,
không gian đã nghe giọng vàng lưu luyến.
Ca trù, bị gọi nôm na là hát ả đào, người ngâm hát bị gọi nôm na là cô đầu,
chính thực là kho báu, là quốc túy của ta. Ai làm ra những bài hát nói, những
bài thơ cho các cô đào ấy hát? Ai đàn, ai trống, ai đệm nhịp “tùng tùng cắc
cắc” cho những giai nhân nghệ sĩ kia giãi tỏ tâm tình? Thưa đó là các nhà trí
thức, các nhà thơ danh vọng, đó là những Nguyễn Du, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương,
Tản Ðà,... tác giả những từ khúc, thi phẩm cả thế kỷ qua được ghi vào chương
trình giáo dục của quốc gia.
Khi ca, khi tửu, khi
cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên,
không vướng tục.
(Nguyễn Công Trứ,
Ngất Ngưởng)
Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy
Nửa chen mặt nước nửa từng
mây...
Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng
Chén rượu bên đèn luống tỉnh
say.
(Nguyễn Khuyến, Tiệc Hát)
Nhất phiến tài tình
thiên cổ lụy
Tân thanh đáo để vị thùy
thương.
(Chu Mạnh Trinh, Thúy
Kiều Oan Trái)
"Chính ở ca trù chúng ta không những thấy được cái chân tướng
con người sống động của giới trí thức Việt Nam xưa, mà chúng ta còn thấy được
cái tài dung hợp Việt hóa nào Ðường thi, nào Từ nào Phú, nào Lục bát nào Song
thất,... và màu sắc phong phú trăm hoa.” (Nguyễn Ðăng Thục, Khoa
trưởng Ðại học Văn khoa, đề tựa Ca Trù của Ðỗ Bằng Ðoàn, Ðỗ Trọng Huề)
Cho
nên nhiều người lầm lẫn cô đầu với nghệ sĩ ca trù, đã có thời vì thế ca trù bị
quên lãng, người ca bị nhìn sai lệch. Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp là bạn quí của những
tài danh như Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Hà Thượng Nhân, Cao Tiêu. Bà tên thật
là Nguyễn Thị Tý, tự là Nhu, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Ngọ tức ngày 1 tháng
6, 1930 trong một gia đình nghệ sĩ tại làng Hiệp Lộc, tỉnh Sơn Tây. Gia đình bà
nhiều người là các nghệ sĩ chầu Văn, ca ngâm tại các đền chùa, hội hè ở Phủ Giầy,
đền Hai Bà, đền Ðức Thánh Trần ở ngoài Bắc. Theo một bài viết của Vĩnh Tường
đăng trên Khởi Hành, Hồ Ðiệp mất vào năm 1987, nhưng theo một bài viết của nữ
sĩ Hoàng Hương Trang, có khác. “Di ảnh của Hồ Ðiệp hiện thấy được thờ ở chùa An
Lạc, đường Phạm Ngũ Lão quận nhất thành phố Sài Gòn, trên di ảnh đề ngày mất 15
tháng 5 Mậu Thìn (1988). Có lẽ đó chỉ là ngày ra đi của Hồ Ðiệp chứ không phải
là ngày mất thật sự.” (Hoàng Hương Trang, Nhớ Nghệ Sĩ Ngâm Thơ Hồ Ðiệp). Vẫn
theo nhà thơ nữ thì Hồ Ðiệp được thờ ở đây là do lòng hâm mộ của một thính giả,
một người say mê giọng ngâm của bà ở Sài Gòn. Một nhà thơ, tiến sĩ ngữ học Ðại
Học Prague, Tiệp Khắc, mệnh danh Hồ Ðiệp là Nữ Hoàng Thanh Sắc với hai câu thơ:
Thanh, sắc vọng mãi Ðất Trời
Nghìn thu cánh bướm vỗ
hoài Hồn Thơ.
(Nguyễn Phan Cảnh, Dự báo Bùng nổ Thi Ca)
Giọng
ngâm chính của Ban Tao Ðàn còn mãi trong không gian, trong lòng người, cụ thể
là trong ba băng nhạc nhan đề Thi Nhạc Giao Duyên, Thục Vũ thực hiện năm 1971;
băng Mây Hồng do Hồng Vân thu năm 1972; và băng Hồ Ðiệp do vài vị liên tài thực
hiện cùng năm.
Bài trên còn viết: “Theo cô Thái Hằng [bà Phạm Duy], thì khi còn nhỏ Hồ Ðiệp là
một cô bé rất xinh đẹp. Thái Hằng và Hồ Ðiệp có cùng một ông ngoại. Hồ Ðiệp lớn
lên ở quê ngoại, còn Thái Hằng theo bố mẹ ra Hà Nội. Mỗi lần Thái Hằng về quê,
Hồ Ðiệp chạy thật nhanh từ cổng nhà lên đến tận bờ đê đón các anh các chị với
quà Hà Nội... Hồ Ðiệp có giọng cười trong như một dòng suối tinh khiết và đôi mắt
rất đẹp, ngày đó chưa u ẩn và chưa buồn viễn xứ.” Sau 1954 tại Sài Gòn, “Thỉnh
thoảng, Hồ Ðiệp hay ra sân quét vạt sân rụng đầy lá trứng cá. Cô hay mặc quần
satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi
hát, cô hay đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu,
không vẽ. Cô choàng tấm khăn san mỏng, chân mang hài cong. Cô trang điểm rất
ít, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cô cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ.
Cô có cái đẹp cổ kính của một thục nữ cõi Bắc Hà.” [...] Theo lời bà Hồ Liễu (nữ
đại tá QLVNCH), sau 1975 Hồ Ðiệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại
các chùa, hay tại nhà bạn hữu...
Như báo chí lâu nay vẫn loan tin, nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp vượt biên bằng đường bộ,
và từ đó bặt vô âm tín. Không một nhân chứng nào xuất hiện, để thuật lại những
gì đã xảy ra cho nữ nghệ sĩ; khác với trường hợp danh hài Khả Năng.
Nghệ sĩ Khả Năng cũng vượt biên đường bộ, và một nhân chứng là nhà thơ Trần Bát
Nhã, sau này là chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Louisianna, là chứng nhân, đã thuật
lại cái chết của anh, bị bắn chết trong cuộc rượt đuổi cạnh biên giới, như bài
tường thuật trên cùng tờ báo.
Có thời người ta coi rẻ nhạc cải cách, có thời người ta coi nhẹ nhạc sến, có thời
người ta cười vọng cổ, có thời người ta chê bai nhạc vàng, và có thời người ta
ám chỉ “hát cô đầu.”
Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục coi ca trù là quốc hồn quốc túy, nó cũng như ca dao, tục
ngữ, đều là những thứ “do cái hồn chung của đất nước tự nhiên sản xuất ra,” cho
nên biết gìn giữ kho báu ấy thì văn hóa đất nước mới phong phú được. Dương danh
nghệ sĩ chân chính cũng chính là gìn giữ văn hóa chung vậy.