Saturday, March 19, 2016

Hoa Sứ Nhà Nàng (Hoàng Phương)



---------- Forwarded message ----------
From: khai tran

----- Forwarded Message -----
From: "Hien Do
Sent: Friday, March 18, 2016 6:33 PM
Subject: [CATBUI2011] Hoa Sứ Nhà Nàng (Hoàng Phương)

 

Hoa Sứ Nhà Nàng (Hoàng Phương)

DongNhacXua.com cũng như người yêu nhạc xưa, đặc biệt là những ai yêu thích dòng nhạc belero không thể không biết đến bản ‘Hoa sứ nhà nàng’. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta biết được về cuộc đời cũng như hoàn cảnh éo le cuối đời của tác giả: nhạc sỹ Hoàng Phương.
altHoa sứ nhà em (tức Hoa sứ nhà nàng) của Hoàng Phương. Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
hoa-su-nha-nang--1--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.comhoa-su-nha-nang--2--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.comhoa-su-nha-nang--3--hoang-phuong--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
TÁC GIẢ ‘HOA SỨ NHÀ NÀNG’ CHẾT TRONG TẬN CÙNG NGHÈO KHỔ
(Nguồn: tác giả Tư Hoàng đăng trên laodong.com.vn)
Nhắc đến nhạc sĩ Hoàng Phương, nhiều người yêu thích âm nhạc đều biết đó chính là tác giả của nhạc phẩm “vàng” duy nhất được phép lưu hành sau ngày giải phóng, đó là bài hát “Hoa sứ nhà nàng”. Ông chính là tác giả của dòng nhạc Gò Công đã làm mưa làm gió từ Nam chí Bắc suốt thập niên 1980. 
Chị Vân và con trước căn nhà bên di ảnh nhạc sĩ Hoàng Phương. Ảnh: laodong.com.vn
Chị Vân và con trước căn nhà bên di ảnh nhạc sĩ Hoàng Phương. Ảnh: laodong.com.vn

Từng sở hữu 2 tiệm vàng, 1 tiệm mua bán đồng hồ, 3 căn nhà phố, nhưng về cuối đời ông sống nghèo khổ trong căn chòi rách nát…

Thành danh trên đất biển Gò Công
Hoàng Phương tên thật là Nguyễn Kim Hoàng, sinh năm 1943 trong một gia đình khá giả tại xóm Cầu Muống, xã Tân Thành, cách thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang) khoảng 17km. Xóm Cầu Muống nằm cách bãi biển Tân Thành khoảng 2,5km, ngày ấy nơi đây nhà dân cư thưa thớt cất dọc theo hai bên trục lộ. Thuở nhỏ, ông học trường tiểu học sơ cấp Tân Thành, sau đó học ở trường Nam Tiểu học Gò Công. Trường Nam Tiểu học Gò Công lúc bấy giờ có một thầy dạy nhạc, đó là nhạc sĩ Lê Dinh.

Thi rớt vào đệ thất (lớp 6 bây giờ) trường công lập, ông theo học đệ thất trường Bán công Gò Công. Một năm sau, khi đang theo học lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ) thì cũng là năm ông ghi danh học nhạc buổi tối với nhạc sĩ Lê Dinh. Sau khi học xong chương trình lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ), thi trượt tú tài 1, ông thôi học. Từ đây, ngoài cái nghiệp đam mê ca hát ra, ông đã chọn cho mình cái nghề để sinh sống sau này là học nghề sửa đồng hồ và học nghề thợ bạc.

Từ khi gặp được nhạc sĩ Lê Dinh, được nghe tiếng hát và phong cách biểu diễn của người nhạc sĩ tài ba này thì… âm nhạc như đã có sẵn từ trong máu ông được dịp trỗi dậy. Ông say mê nhạc hơn những bài toán. Một lần vào một đêm mùa thu, trên con đường từ trường về nhà sau buổi học thêm, ông đã nghe tiếng đàn violon thoát ra từ cửa sổ trên tầng hai của ngôi nhà bên cạnh đường, ai đó đã chơi bài “Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong. Đó là cái đêm định mệnh thôi thúc Nguyễn Kim Hoàng đến với nghiệp cầm ca. Ông quyết dành dụm tiền để mua cho kỳ được đàn violon và ghi danh học nhạc với nhạc sĩ Lê Dinh.

Một thời gian sau ông tìm đến với guitar, có lẽ đối với ông đàn guitar đa dạng, phong phú hơn, trong những buổi trình diễn trước công chúng, trong những lần cắm trại hay họp mặt bạn bè mà mang cây đàn guitar trễ một bên hông, nó có vẻ lãng mạn, tình tứ, mang dáng dấp của một gã du ca lãng tử.

 Việc gì đến phải đến, ông rời ghế nhà trường khi vừa học xong chương trình lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Từ đây ông bước vào một thế giới mới, không còn gò bó bởi thời gian như khi còn ngồi ở ghế nhà trường. Ông miệt mài hơn, vừa học đàn vừa sáng tác, sự say mê cộng với khả năng thiên phú sẵn có trong ông, để rồi sau bao tháng ngày bên cung bậc bổng trầm và kết quả mà ông đã đạt được hơn sự mong đợi rất nhiều. Năm 1968, nhạc phẩm đầu tay “Hoa sứ nhà nàng” của ông ra đời.

Sau này, Hoàng Phương tiếp tục làm sôi động đời sống âm nhạc miền Nam với dòng nhạc mang tên quê hương ông -“nhạc Gò Công”. Phải nói là Hoàng Phương đã góp một phần không nhỏ để quảng bá “Biển Gò Công” nổi danh khắp cả nước.

Bản “nhạc vàng” duy nhất được phép lưu hành sau ngày giải  phóng
Trước 30.4.1975 đất nước phân ly, chiến tranh mỗi lúc một thêm khốc liệt. Thanh niên lớn lên ở vùng do chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) kiểm soát bị bắt buộc gia nhập vào quân đội VNCH. Thường những nhạc sĩ thời ấy chỉ “đi lính” cho có lệ, rồi lo lót để được ở Sài Gòn hoạt động âm nhạc.

Sau ngày giải phóng, tất cả những tác giả có tên trong quân đội cũ đều là những người phải đi học tập cải tạo và nhạc của họ không được phép lưu hành. Như Trần Thiện Thanh, ông là một hạ sĩ quan, nhưng hoạt động chính là một nhạc sĩ. Nhiều bản nhạc ông viết về người lính VNCH, như những bản “Người ở lại Charlie”, “Anh không chết đâu em”, “Mùa xuân lá khô”… và nhiều bài viết về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương đều bị cấm sau 30.4.1975.

Cũng có những soạn giả không tham gia vào quân đội Sài Gòn nhưng có làm việc cho chính phủ cũ, nhạc của họ cũng bị cấm do có nhiều bản nhạc ca ngợi chế độ cũ như “Chuyến đò vĩ tuyến”, “Nắng đẹp miền Nam” của nhạc sĩ Lam Phương, “Đò chiều”, “Tàu đêm năm cũ” của Trúc Phương… Có những bản nhạc rất trong sáng, dễ thương, viết về những kỷ niệm của thời học sinh như “Nỗi buồn hoa phượng” của Thanh Sơn, “Niên học sau cùng” của Hàn Sinh cũng bị cấm. Nói chung các dòng nhạc được viết trước ngày 30.4.1975 hầu hết đều bị cấm vì không dính dáng đến thời cuộc thì cũng bị xếp vào loại nhạc ủy mị, “nhạc vàng”.

Chỉ có một tác giả duy nhất – Hoàng Phương – là không dính dáng đến quân đội Sài Gòn, không làm việc cho chế độ cũ, bởi vì ông bị tật – khập khiễng một bên chân. Nhạc của ông chỉ viết về tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương nên được phép lưu hành, trong đó có bản “Hoa sứ nhà nàng”.
Phải nói là trước ngày giải phóng, đời sống âm nhạc ở miền Nam cực kỳ phong phú, từ giới bình dân đến trí thức, ai cũng có thể chọn những bản nhạc thích hợp với “gu” của mình. Giới trí thức thì chọn nhạc của Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Dương Thiệu Tước…, ai thất tình triền miên thì kiếm nhạc của Đỗ Lễ, Vũ Thành An…, giới bình dân thì chọn dòng nhạc của Hoàng Phương, Trúc Phương, Lam Phương…, dễ dãi hơn nữa thì tìm nhạc của Vinh Sử, Cô Phượng…, còn người nào phản chiến, coi cuộc chiến là sự ô nhục, huynh đệ tương tàn thì tìm các “Ca khúc da vàng” của Trịnh Công Sơn.

Khi những bản nhạc ăn vào máu vào thịt của tầng lớp mê ca hát bị cấm nghe, cấm hát thì hỏi làm sao mà không buồn cho được. Đây là khoảng thời gian mà nhạc phẩm “Hoa sứ nhà nàng” lên ngôi “nhạc đế”, bản nhạc dễ học, dễ ca, những lời trong bài hát dễ nhớ. Hồi đó,  “Hoa sứ nhà nàng” là nhạc phẩm không thể thiếu trong những tiệc vui, đám cưới thôn quê và những lần họp mặt.

Về cõi vĩnh hằng trong cô đơn và nghèo túng
Trước năm 1975, Hoàng Phương vừa viết nhạc vừa trông coi tiệm buôn bán đồng hồ, về sau ông có mở hai tiệm vàng Kim Hoàng và Toàn Tân tại thị xã Gò Công. Gia đình ông lúc đó rất khá giả, nhưng vì nặng nợ với nghiệp cầm ca, ông chọn con đường sống xa gia đình.

Năm 1989, ông bỏ lại tất cả sự nghiệp, kể cả gia đình, vợ và 8 đứa con để bước thêm bước nữa với người yêu mới tên là Mộng Vân (nhỏ hơn ông hai con giáp). Ông cất một căn nhà tạm bợ bằng tre lá, khoảng 15m2 gần bãi biển Tân Thành, gọi là nhà chứ thật ra nó là một căn chòi, nghèo nàn, xơ xác. Càng về sau, cuộc đời ông như buông thả, suốt ngày ông vùi đầu bên ly rượu, có khi mới hừng đông mà người ta đã thấy ông ngà say, một mình lang thang trên bãi biển Tân Thành.
Trong căn lều bé nhỏ ông vẫn sáng tác, một bên là cây đàn guitar và một bên là chai rượu đế, để rồi một thời gian sau đó ông suy sụp hoàn toàn, càng buồn phiền ông càng phẫn chí, ông lại vùi đầu vào ly rượu để lãng quên đời, rượu chè thâu đêm suốt sáng, điếu thuốc lúc nào cũng lấp lóe trên môi… Như cái vòng luẩn quẩn, ngỡ chuốc rượu cho tiêu sầu nào ngờ nỗi buồn như thêm chồng chất… Ông chưa quên được đời nhưng đời đã muốn lãng quên ông… Sau bao ngày đắm chìm trong men rượu, một hôm ông phát hiện ra mình mang một chứng bệnh quái ác – bệnh ung thư gan, thời kỳ cuối.

Hoàng Phương mất ngày 19.10.2002 tại Gò Công. Đám tang được tổ chức đơn sơ trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn của vợ chồng ông trên bãi biển Tân Thành. Khi chết rồi ông vẫn còn nặng nợ với nghiệp cầm ca, ông còn để lại cho người, cho đời khoảng 10 ca khúc bằng bản thảo viết tay: “Biển khóc”, “Thuyền giấy chiều mưa”, “Hương bâng khuâng”, “Tình hạ buồn”, “Tìm em quán Phượng”, “Bươm bướm ngày thơ”, “Em vẫn chờ”, “Kiếp tơ tằm”, “Mộng tàn”, “Mùa nhạn trắng”… Có phải như một lời cảm ơn (?). Cảm ơn cuộc sống dù đau khổ muộn phiền này!…

CHÂN DUNG TÁC GIẢ ‘HOA SỨ NHÀ NÀNG’ QUA KÝ ỨC CON TRAI
(Nguồn: tác giả Hà Nguyễn – Ngọc Lài đăng trên NguoiDuaTin.vn)
Những năm 80-90 của thế kỷ trước, nhạc Gò Công tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc Việt như một hiện tượng nghệ thuật mới lạ. Người khai phá và duy nhất tỏa sáng với dòng nhạc Gò Công là nhạc sĩ Hoàng Phương. Ông được giới nghệ sĩ, thính giả thời bấy giờ vinh danh “Ông hoàng nhạc Gò Công” với những bài hát ca ngợi quê hương Gò Công, cũng như chuyện tình đôi lứa bằng lời hát trong sáng và mặn mà…
Chân dung tác giả Hoa sứ nhà nàng
Thời cực thịnh của nhạc Gò Công, khắp trong Nam ngoài Bắc, người yêu nhạc đổ xô tìm mua băng cassette nhạc Gò Công của nhạc sĩ Hoàng Phương. Những ca khúc viết về tình yêu, về biển của ông trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của đại đa số người yêu nhạc. Những ca khúc: Chuyện tình hoa muống biển, Biển tím, Chuyến xe Tiền Giang, Tình em quán Phượng,… đặc biệt là tình khúc Hoa sứ nhà nàng trở nên phổ biến đến độ hầu như ai cũng thuộc. Cho đến nay, những ca khúc trên của cố nhạc sĩ Hoàng Phương, người được giới nghệ sĩ cùng thời mệnh danh “Ông hoàngnhạc Gò Công” vẫn chinh phục tình yêu âm nhạc của người đời.

Anh Nguyễn Hoàng Tùng, người con trai duy nhất được thừa hưởng những tinh hoa của nhạc sĩ Hoàng Phương cho biết: “Mặc dù, ca khúc Hoa sứ nhà nàng của cha tôi hết sức phổ biến và được nhiều ca sĩ thể hiện thành công nhưng ít ai biết đó là sáng tác của ông. Không như những nhạc sĩ khác, cha không chọn lĩnh vực âm nhạc làm nghề nuôi thân mà chỉ xem đó như một thú chơi tao nhã, thỏa niềm đam mê. Và ông đã biến niềm đam mê đó của mình thành niềm đam mê của người khác khi góp phần đưa nhạc Gò Công đến đỉnh của nó vào những năm 80-90 của thế kỷ trước”.

Theo lời anh, “ông hoàng” vốn xuất thân từ một gia đình có của ăn của để.Gia đình ông vốn không thích cậu con trai theo nghiệp cầm ca mà hướng cậu vào con đường thương nghiệp. Thế nhưng, những tháng năm ngồi trên ghế nhà trường, niềm đam mê âm nhạc dường đã lấn át con chữ trên những trang vở. Ông say đắm các nhạc khúc viết về quê hương vùng biển Gò Công. Cùng lúc ấy, như duyên trời đã định, khi còn đang theo học tại trường Nam Tiểu học Gò Công, cậu bé yêu nhạc đã vô tình được biết nhạc sĩ Lê Dinh. Để thỏa niềm đam mê âm nhạc, ông quyết định ghi danh học nhạc với vị nhạc sĩ tài ba nói trên. Từ đây, con đường đến với âm nhạc của cậu học trò trường làng đã tìm được lối dẫn.

Anh Hoàng Tùng giới thiệu những nhạc phẩm còn dở dang của nhạc sĩ Hoàng Phương (Ảnh: Hà Nguyễn)

Anh Hoàng Tùng giới thiệu những nhạc phẩm còn dở dang của nhạc sĩ Hoàng Phương (Ảnh: Hà Nguyễn)

Anh Hoàng Tùng kể lại: “Khi còn sống, cha tôi thường kể cho tôi nghe về những năm tháng đầu tiên ông đến với âm nhạc. Tôi còn nhớ ông kể rằng vào một mùa thu, trên con đường từ trường về nhà sau buổi học thêm, ông đã nghe tiếng đàn violon thoát ra từ cửa sổ trên tầng hai của ngôi nhà bên cạnh đường. Ai đó đang chơi bài Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong. Những tiếng đàn, những nốt nhạc đó đã thôi thúc ông tiến đến gần hơn con đường âm nhạc”. Sau đêm định mệnh trên, anh thanh niên Hoàng Phương dốc tiền mua cây violon và ghi danh, nhận nhạc sĩ Lê Dinh làm thầy.

Tuy nhiên, có lẽ cảm thấy mình thích hợp hơn với chất lãng tử, phiêu du của một anh du ca, Hoàng Phương quyết định chuyển sang học guitar. Những tháng ngày đắm mình trong các buổi trình diễn trước công chúng, trong những lần cắm trại hay họp mặt bạn bè, nhạc sĩ Hoàng Phương luyện thêm chất giọng, chắt lọc thêm ca từ, điệu nhạc cho các ca khúc của mình. Đam mê, say đắm với âm nhạc một cách kỳ lạ nhưng người nhạc sĩ miệt vườn tài danh chưa một lần chọn con đường âm nhạc làm nghề nuôi thân. Anh Hoàng Tùng chia sẻ: “Cha tôi không lấy việc viết nhạc làm nghề nuôi thân. Thế nên, khi từ giã ghế nhà trường, ông về nhà mở tiệm sửa đồng hồ và sau này chuyển sang buôn bán ở hai tiệm vàng Kim Hoàng và Toàn Tân”.

Tuy nhiên, tình yêu dành cho âm nhạc của ông vẫn không một ngày nguôi ngoai. Từ những sáng tác đầu tay, các tình khúc chất chứa tình yêu đời, yêu người, yêu quê hương, yêu biển của ông lần lượt ra đời. Đặc biệt, rất nhiều tình khúc của ông được lấy cảm hứng từ chính những mối tình của tác giả.

Tình khúc từ những mối tình chân thật
Năm 1968 đánh dấu sự chuyển mình của anh du ca lãng tử khi Hoàng Phương lên Sài Gòn tham gia vào ban nhạc cùng Vinh Sử, Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. Cũng chính năm này, ông sáng tác đứa con tinh thần đầu tiên và cũng là ánh sao thắp sáng mãi tên tuổi của người nhạc sĩ – nhạc phẩm Hoa sứ nhà nàng. Những ca từ, xúc cảm về một mối tình dở dang nhanh chóng chiếm được cảm tình thính giả. Anh Hoàng Tùng cho biết: “Nhạc của cha tôi đến từ những tình cảm chân thật, chân chất của một con tim yêu đời, yêu quê hương nồng cháy. Đặc biệt là tình khúc. Hầu như, những tình khúc của ông đều là những chuyện tình có thật của ông ngoài đời. Sinh thời, nhiều chú bác là những nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời cho rằng ca khúc Hoa sứ nhà nàng xuất phát từ mối tình thật của ông. Tuy nhiên, về chuyện này, tôi không nghe ông khẳng định. Là phận con, tôi cũng không dám nhiều lời”.

Theo anh, một trong nhiều tình khúc khác cũng xuất phát từ các mối tình của ông là nhạc phẩm Chiếc cầu chiều mưa. “Nhạc khúc này tôi được biết là khi ông với người tình của mình đi cùng một chiếc cầu trong chiều mưa. Mưa, cầu trơn, hai người ngã nhào. Thế mà ông lại lấy cảm hứng từ kỷ niệm ấy viết nên ca khúc trên”, anh Tùng cho biết thêm. Ngoài những nhạc phẩm trên, theo anh Hoàng Tùng, rất nhiều ca khúc khác được ông sáng tác dựa trên những xúc cảm chân thật từ những mối tình của mình. Anh chia sẻ: “Sinh thời, cha tôi tính tình phóng khoáng lại hào hoa, lãng tử nên cũng rất đa tình. Và những mối tình ấy đã chắp thêm cánh cho những sáng tác trong mảng đề tài tình yêu đôi lứa của ông”.

Tuy nhiên, ngoài ngợi ca tình yêu lứa đôi trong sáng với những cung bậc rất riêng, nhạc sỹ Hoàng Phương còn có một tình yêu đặc biệt với quê hương Gò Công, với biển. Năm 1986 đánh dấu sự trở lại của Hoàng Phương, đưa ông lên ngai vàng ông hoàng nhạc Gò Công với những nhạc phẩm: Trưa hè trên bãi biển; Chung một dòng sông; Gò Công hồng trang sử; Biển thức; Về nông trường Phú Đông; Tiếng chim mùa xuân; Nhà em đó bên kia sông; Biển Gò Công khi em đến; Chiều xuân qua thị trấn Gò Công; Ánh mắt quê hương; Khung trời quê; Khúc Cachiusa hát ở bên sông Tiền; Mỹ Tho thành phố cội nguồn; Mẹ Gò Công; Biển tím; Khung trời quê…

Anh Hoàng Tùng chia sẻ: “Năm đó, bộ Văn hóa cho lưu hành bản Hoa sứ nhà nàng của cha tôi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nghe đứa con tinh thần của mình được phát công khai, ông sướng run người. Như dòng sông được khơi lòng, ông lao vào sáng tác, hồ hởi sáng tác, sáng tác ngợi ca tình yêu, ngợi ca quê hương Gò Công, ngợi ca biển nơi gắn liền với tuổi thơ ông. Thời điểm này nhạc Gò Công đang trên đà đi lên và những sáng tác của ông đã tiếp bước cho nó bay cao hơn, xa hơn”.

Để những sáng tác của mình đến gần hơi thở cuộc sống hơn, gần hơn với nhịp sống của quê hương, ông tìm người thể hiện những ca khúc của mình. “Khi ấy toàn là người không chuyên nên các buổi biểu diễn ca khúc của cha tôi không mấy thành công. Mình không biết cách phối khí, hòa âm nên nghe không ra gì. Thương yêu bà con yêu mến nhạc của mình, cha tôi gác công việc, gom tiền lên TP.HCM tìm nhạc sĩ Quốc Dũng và Lê Hựu Hà. Họ phối khí hòa âm xong, ca sĩ Bảo Yến (vợ Quốc Dũng) hát thử. Thấy hay thế là thu băng cassette. Vậy là người ta ùn ùn đi tìm băng nhạc Gò Công”. Sau này, ông còn bỏ tiền túi ra mời ca sỹ về quê hát cho bà con nghe miễn phí”, anh Hoàng Tùng kể lại.



__._,_.___

Posted by: truc nguyen <

Thursday, March 17, 2016

Áo Dài trong Thơ và Nhạc

From: coi nguyen
Sent: Tuesday, March 15, 2016 10:00 AM
To: Vuong Kim Thanh
Subject:  Áo Dài trong Thơ và Nhạc



Subject: Áo Dài trong Thơ và Nhạc

On Sunday, March 13, 2016 7:25 PM,
 

"Tâm tư khép, mở đôi tà áo..."
("Tự tình dưới hoa", Đinh Hùng)
Chiều nào áo tím nhiều quá, lòng thấy rộn ràng nhớ người...
Những tà áo nhẹ bay trong gió từ lâu lắm đã đi vào thi ca, là nguồn cảm hứng vô tận của những người làm thơ, viết nhạc.


Dưới mắt Phạm Đình Chương là "áo bay mở, khép nghìn tâm sự..." (Mộng Dưới Hoa)Dưới mắt Vũ Thành là "áo dài bay ngờm ngợp cả khung trời..." (Mùa Kỷ Niệm)
Dưới mắt Hoàng Dương là "áo mầu tung gió chơi vơi..." (Hướng Về Hà Nội)
Dưới mắt Trịnh Công Sơn là "áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều...(Tình Nhớ)
Những vạt áo dài, từ lâu lắm, đã lất phất trong những trang thơ tiền chiến. Từ "đôi tà áo lụa bay trong nắng…" (Áo Lụa, Bàng Bá Lân) đến:
"Nắng thơ dệt sáng trên tà áo,
lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài...."
 (Áo Trắng, Huy Cận).


Áo dài cũng len cả vào những câu lục bát trữ tình của Nguyễn Bính:
"Hồn anh như bông cỏ may
một chiều cả gió bám đầy áo em"
 (Bông Cỏ May)

Và len cả vào dòng thơ hào hùng mà lãng mạn của Quang Dũng:
"Em đi áo mỏng buông hờn tủi
dòng lệ thơ ngây có dạt dào"
 (Đôi Bờ)


Áo dài còn là giấc mơ thanh bình của những làng quê hiền hòa trong tình ca quê hương của Phạm Duy:
"Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong tiếng cười..." (Quê Nghèo)

Kỷ niệm êm đềm về một tà áo, một đôi mắt huyền được Tô Vũ ghi lại bằng nét nhạc lâng lâng:
"Em đến thăm anh, người em gái, tà áo hương nồng, mắt huyền trìu mến sưởi ấm lòng anh..." (Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa)

"Ta ước mơ một chiều thêu nắng...
Nỗi "ước mơ" của chàng nhạc sĩ họ Tô ấy được vẽ lại trong thơ Trần Dạ Từ. Trong phút giây chờ đợi bước chân người tình khe khẽ đến bên hiên nhà, chàng tưởng chừng nghe được cả tiếng gió lay động vạt áo dài và tiếng lá nhẹ rơi bên thềm:
"Môi cười vết máu chưa se
cành hoa gạo cũ nằm nghe nắng hiền
Anh nằm nghe bước em lên
ngoài song lá động, trên thềm áo bay"
 (Khi Nàng Đến)


Áo bay làm ngơ ngẩn, như chàng Huy Cận thuở mới lớn, trước cổng trường nữ sinh
"Một hôm trận gió tình yêu lại,
đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư"
 (Học Sinh)

Áo bay làm thẫn thờ, như chàng thi sĩ đa tình Nguyễn Tất Nhiên, dõi mắt nhìn theo mãi một tà áo vu quy:
"Đò qua sông chuyến đầu ngày,
người qua sông mặc áo dài buông eo"
 (Chuyến Đò Cửu Long)

"Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong" (1)


Áo trắng trinh nguyên tuổi học trò, áo trắng của "một thời áo trắng", từng làm ngất ngây trái tim bao chàng trai, để đêm đêm trong giấc ngủ chập chờn còn trông thấy "áo ai bay trắng cả giấc mơ". Áo trắng như dòng suối mát trong thơ Huy Cận:
"Dịu dàng áo trắng trong như suối,
tỏa phát đôi hồn cánh mộng bay"  
( Áo Trắng)
      
Áo trắng như lụa trắng trong thơ Hoàng Anh Tuấn
"Áo em lụa trắng sông Hương
qua đò Thừa Phủ nhớ thương rạt rào"
 (Về Chân Trời Tím)

Hay trong thơ Kim Tuấn:
"Em về tà áo lụa
bay ngập ngừng trong anh" 
(Thu ở Xa Người)
Hay trong thơ Nguyên Sa:
"Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng"
 (Áo Lụa Hà Đông)

Áo Lụa Hà Đông
             
Áo trắng như gió, như mây, để "nhà thơ của tình yêu" phải bâng khuâng:
"Có phải em mang trên áo bay
hai phần gió thổi, một phần mây?
Hay là em gói mây trong áo
rồi thở cho làn áo trắng bay?" 
(Tương Tư)


Áo trắng của nhà thơ còn là dải sương mù lướt thướt trên bến sông Seine giữa kinh thành hoa lệ Paris, gợi nhớ một vạt áo dài ở chốn xa quê nhà:
"Anh về giữa một dòng sông trắng
là áo sương mù hay áo em"
 (Paris Có Gì Lạ Không Em?)

Áo trắng của Hoàng Thi Thơ là bướm trắng, là hoa trắng, là mây trắng
"Ngày nào em đến áo em mầu trinh, áo xinh là xinh, áo em trong trời buồn, là gió, là bướm, là hoa, là mây chiều tà..." (Hình Ảnh Người Em Không Đợi)


Áo trắng một màu trắng thanh khiết trong nhạc Nguyễn Vũ:
"Áo trắng em bay như cánh thiên thần…" (Bài Thánh Ca Buồn)

Áo trắng nhẹ bay trong chiều giáo đường trong nhạc Lê Trọng Nguyễn
"Tà áo trinh nguyên tung bay, nụ cười thân ái..." (Chiều Bên Giáo Đường)


Áo trắng một màu trắng xóa làm hoa cả mắt nhà thơ Hàn Mặc Tử:
"Áo em trắng quá nhìn không ra" (Đây Thôn Vĩ Dạ)

Áo bay làm nhớ nhung, như nỗi nhớ da diết một mầu áo, một đôi môi thắm trong nhạc Từ Công Phụng:
"Chiều nay nhớ em rồi, và nhớ áo em đẹp trời thơ, môi tràn đầy ước mơ..." (Bây Giờ Tháng Mấy)

Áo trắng như đôi cánh trắng trên sân trường kỷ niệm trong thơ Luân Hoán:
"Tà áo trắng xoè như đôi cánh lượn
trải dịu dàng trên cỏ mượt mà xanh"
 (Trong Sân Trường Bữa Ấy)

Mỗi người đều cần có một mái trường để luyến tiếc, để nhớ về.... Nhớ về ngôi trường cũ là nhớ về những người thầy người bạn, là nhớ về những lớp học những sân chơi và những năm tháng tươi đẹp nhất của một thời tuổi trẻ.
"Áo mầu tung gió chơi vơi"


Áo bay như bướm lượn, áo bay như đàn bướm trong khu vườn mùa xuân. Áo bay nhiều quá, để chàng nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ làm... thơ:
"Hôm nay sao áo bay nhiều thế! Tôi tưởng ngàn cánh bướm khoe mầu..." (Tà Áo Cưới)
   http://nguyentran.org/NT/Nhac/TaAoCuoi-VK.mp3&autostart=0&autoreplay=0&showtime=1" />
Áo mầu của Phạm Duy lất phất trong gió chiều như lòng người... phất phơ:
"Xin cho em một chiếc áo mầu, cho em đi nhẹ trong nắng chiều. Một chiều nhiều người theo, ở ngoài đường trên phố, và lòng người như áo phất phơ..." (Tuổi Ngọc)

Nhớ về một mầu áo là nhớ về những đường phố quen tên, nhớ áo ai bay trong chiều trên những con đường ngập xác lá vàng, như nỗi nhớ ngút ngàn của Trịnh Công Sơn:
"Nhớ Sài Gòn những chiều lộng gió, lá hát như mưa suốt con đường đi, có mặt đường vàng hoa như gấm, có không gian mầu áo bay lên..." (Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
Những tà áo muôn mầu muôn vẻ vẫn khoe sắc thắm trong những trang thơ và nhạc. Áo vàng trong thơ Nguyên Sa có khi là bông cúc vàng:
"Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc"

Tuổi Mười Ba

Có khi là nắng thu vàng:
"Có phải mùa xuân sắp sửa về
hay là gió lạnh lúc đêm khuya?
hay là em chọn sai mầu áo
để nắng thu vàng giữa lối đi?"
 (Tương Tư)

Áo vàng như cánh mai vàng trong nhạc Trần Thiện Thanh.


Người lính trẻ thấy sắc hoa rừng, mơ về một sắc áo:
"Những hôm vừa xong phiên gác chiều ven rừng kín hoa mai vàng, chợt nhớ tới sắc áo năm nào em đến thăm gác nhỏ..." (Đồn Vắng Chiều Xuân)

Người lính chiến trong nhạc Phạm Đình Chương cũng bâng khuâng vì một sắc hoa, một mầu áo, một đôi mắt người xưa:
"Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa
thấy sắc hoa tươi nên mơ mầu áo năm xưa
Kỷ niệm đầu len len trở về tâm tư
có mắt ai xanh thắm trong mộng mơ..." 
(Màu Kỷ Niệm)

Tà áo màu xác pháo để lại nỗi buồn lắng đọng trong thơ Nguyễn Tất Nhiên:"Người qua sông mặc áo hường
Nắng dương gian, nắng buồn hơn trước nhiều"
 (Chuyến Đò Cửu Long)

Áo mầu tím, mầu của "định mệnh", của mộng mơ, nhớ nhung và chia cách. Chuyện tình "ngàn thu áo tím" của cô bé trót yêu màu tím, được Hoàng Trọng, "nhạc sĩ của mầu tím", kể lại:
"Ngày xưa xa xôi em rất yêu mầu tím... Chiều xuống áo tím thường thướt tha, bước trên đường thắm hoa, ngắm mây trời lướt xa...


"Rồi khi vừa biết yêu là khi chia tay với mầu tím, chia tay với tình đầu:"Ngàn thu mưa rơi trên áo em mầu tím, 
ngàn thu đau thương vương áo em mầu tím..."

Ngàn Thu Áo Tím
http://nguyentran.org/NT/Nhac/NganThuAoTim.mp3&autostart=0&autoreplay=0&showtime=1" />

Cũng một mầu áo tím, một chân trời tím trong thơ Kim Tuấn
"Áo nàng bay lên tím ngát trời chiều" (Phố Xưa)
Trong mắt Vũ Thành, "nhà thơ của mầu tím", khi mùa thu buông áo xuống một phương trời, mầu mây tím trông như mầu áo người mình yêu để lòng chàng gợn lên nỗi buồn trăn trở:
"Áo em tím cả phương này
anh nghe thành phố đêm nay trở buồn"
 (Áo Tím)


Vạt áo dài mầu tím hoa sim, trong thơ Phạm Thiên Thư, chỉ là thoáng lay động, vừa ngập ngừng e ấp vừa nao nức gọi mời:
"Áo em vạt tím ngàn sim,
nửa nao nức gọi, nửa im lặng chờ
Yêu nhau từ độ bao giờ
gặp đây giả bộ hững hờ khói bay"
 (Động Hoa Vàng)

Rồi áo tím qua cầu, mang theo cả mùa thu, để lại nỗi trống vắng mênh mang trong lòng nhà thơ Trang Châu:
"Thế giới của anh không có chân trời
không có mùa xuân lấy đâu hoa bướm
không có bàn tay cho bàn tay hò hẹn
áo tím qua cầu nên cũng hết mùa thu" 
(Thế Giới Của Anh)


Có những gặp gỡ rất tình cờ, bất chợt, như gặp gỡ một tà áo tím, cũng đủ để lòng chàng nhạc sĩ Hoàng Nguyên mãi vấn vương theo mầu áo:
"Một chiều lang thang bên dòng sông Hương,
tôi gặp một tà áo tím, nhẹ thấp thoáng trong nắng vương... 
Rồi lòng bâng khuâng theo mầu áo ấy, 
mầu áo tím hôm nào..."
 
Tà Áo Tím
"Nhạc sĩ của mầu xanh và mùa thu", danh hiệu ấy có lẽ thuộc về hai chàng Đoàn Chuẩn–Từ Linh chứ không ai khác hơn:
"Với bao tà áo xanh đây mùa thu..."

 Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay
  http://nguyentran.org/NT/Nhac/GuiGioChoMayNganBay.mp3&autostart=0&autoreplay=0&showtime=1" />
 
Câu hát nghe như bàn tay kéo nhẹ tấm màn cửa mở ra khung trời bát ngát mùa thu, bát ngát màu xanh. Trong những dòng kẻ nhạc của hai chàng nghệ sĩ đa tình ấy vẫn luôn luôn thấp thoáng một "tà áo xanh" và một "màu xanh ái ân":
"Tà áo xanh nào về với giấc mơ. 
Mầu áo xanh là mầu anh trót yêu..."

Thu Quyến Rũ


"Trót", như một định mệnh, buộc chặt người viết câu hát với mầu xanh kia.
"Hẹn một ngày nao khi mầu xanh lên tà áo..." (Cánh Hoa Duyên Kiếp)
Nghe như câu hẹn ước, như lời thề nguyền sắt son...
"Khi nào em đến với anh, xin đừng quên chiếc áo xanh..."

Tà Áo Xanh
        http://nguyentran.org/NT/Nhac/TaAoXanh-LeThu.mp3&autostart=0&autoreplay=0&showtime=1" />

Còn lời dặn dò nào ân cần, thiết tha hơn thế nữa...
Nhớ về một mầu áo là "nhớ những giây phút êm đềm, nắng loang trên sân trường một chiều nào..." (2). Màu áo xanh trong thơ Nguyên Sa là màu cây cỏ xanh tươi trên sân trường phượng vĩ:
"Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường" (Tuổi Mười Ba)
Màu áo xanh trong nhạc Y Vũ gợi nhớ một mái tóc, một tà áo thấm đẫm nước mưa:
"Chiều xưa mưa rơi âm thầm,
để thấm ướt chiếc áo xanh,
và đẫm ướt mái tóc em..." 
(Tôi Đưa Em Sang Sông)
Tà áo mầu xanh thắm của một "tiếng hát học trò" gieo vào lòng nhạc sĩ Nguyễn Hiền bao "niềm thương nhớ đầy vơi"
"Thuở ấy không gian chìm lắng trong mơ.
Tà áo em xanh, mầu mắt ngây thơ..."

Tiếng Hát Học Trò


Thiếu nữ vừa biết yêu trong nhạc Trần Thiện Thanh cũng bồi hồi khoác vào người chiếc áo mầu xanh da trời trong lần hò hẹn đầu tiên:
"Biết anh thích mầu trời, em đã bồi hồi chọn mầu áo xanh..." (Bảy Ngày Đợi Mong)
Tà áo dài trong nhạc Nguyễn Văn Đông có màu xanh của rừng thông Đà Lạt một mùa nào Giáng Sinh
"Tà áo năm xưa xanh màu thông Dalat…" (Màu Xanh Noel)

Áo xanh mộng mị còn bay cả vào trong thơ "trung niên thi sĩ" Bùi Giáng:"Biển dâu sực tỉnh giang hà
còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh"
 (Áo Xanh)
Áo xanh mộng mị của một thời quên lãng trong thơ Đinh Hùng:
"Trong vườn quên lãng áo ai xanh..." (Dạ Hội)

 Và còn rất nhiều, rất nhiều... những vạt áo dài lộng gió trong thơ và nhạc. Tà áo dài mềm mại đã nhẹ nhàng êm ái đến với cuộc đời, nhẹ nhàng êm ái đi vào lòng người...


Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, dù ở chốn quê nhà gần gũi, hay ở một góc trời xa thẳm, chiếc áo dài cũng mang theo bầu trời quê hương, cũng mang về mùa xuân ấm áp trong lòng người Việt tha hương. Chiếc áo dài còn là biểu tượng thân quen để người Việt nhận ra nhau trên bước đường lưu lạc trong cuộc sống nổi trôi nơi xứ lạ quê người. Thấy một vạt áo dài, thấy quê hương xa xăm mà gần gũi.Qua bao mùa tang thương dâu bể, qua bao nhiêu vật đổi sao dời, chiếc áo dài truyền thống, chiếc áo dài duyên dáng và trữ tình của người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn luôn là hình ảnh khó phai mờ và còn ở lại mãi trong lòng người.

Lê Hữu




__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List