***SUPER
HD YOUTUBE (pps included) "Mưa Sài Gòn Còn Buồn Không Em -Nguyệt Ánh
-Thiên Kim -NNS"
***CA SI THIEN KIM &
Y PHUONG PLAYLIST
Moi qui than huu thuong
thuc
TRAN NANG PHUNG
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Giao Su Tran Nang Phung duoc su giup do cua nhieu nhan
tai khap noi tren the gioi da thuc hien nhung Video nghe thuat de
gioi thieu nhung nhac pham cho...
|
|
|
Preview by Yahoo
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lá Thư Úc Châu
Trang Thơ Nhạc cuối Tuần: 14-9-14
Nguyệt Ánh:
Mưa Sài Gòn còn buồn không em?
Tiếng hát: Thiên Kim
Kính,
NNS
....................................................................................................
(1) Tưởng Năng Tiến: Đưa người ta không đưa sang sông
Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu,
tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an
nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu
trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:
“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí
Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương
Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể...”
“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn
Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn
lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của
Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu
tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do
– thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ
noi theo.”
Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về
“cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng
biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.
Theo vnexpress: Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa
thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường
công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là
thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức - Long An và khi 17 tuổi,
được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên - sinh viên
- học sinh... Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào
bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên
hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII
và Khóa IX; Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du
lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Cu Ba.
Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm
đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng: “Chị
được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức
ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực
chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau
khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai
đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị
tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều
không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng.
Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng tra tấn chị một cách
dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay nhưng chị quyết không
khai báo.
Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về
tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và
nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về
tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong
giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng
cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”. Nói cho chính xác thì
tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là
“chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều
người khác thì không. Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô
vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng
và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người
dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba
trường hợp để rộng đường dư luận:
Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát
Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng: Trưa
10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản khiến
ông Nguyễn Văn Bông - Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm
chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ... Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam - Phó
ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ
đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình
báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó
hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy
ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy
tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi
cho địch”. Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy
tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng ... trừ khử bằng chất nổ
và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S. Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo
cùng một cách.
Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được
cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính
Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966: “Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố
cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe
rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng
lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh.
Một người xuống xe tay cắp cặp
da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người
ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát
liền. Bố cháu gục xuống.”. Vẫn theo bản tin thượng dẫn: Từ Chung đỗ tú tài
tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng
Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận,
Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời
làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết
báo. Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng, văn hóa đến
chính trị, kinh tế v.v... nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế.
Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là
kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân. Những bài xã luận
của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông
giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên,
các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng
trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một
số trí thức gọi đùa là "mục kinh tế chợ" đã có ảnh hưởng rất lớn đến
mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có
dịch cuốn "Bí Danh" (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.
Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân
vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động.
Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu
người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.
Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ
ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng
ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng
và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ
Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.
Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ
Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài
Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc
Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời
của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”. Là
Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba
khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng
gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng ...
tốt!.
Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong
trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một
cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là qúi hoá hết sức!
Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ
của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta
có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai
quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để
tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?
(2) Hiệu Minh: Vài câu chuyện về Cải cách ruộng đất
Muốn blog cháy hãy viết về chiến tranh Nam Bắc, về cải cách ruộng
đất với khẩu hiệu “Trí, phú, cường, hào.. đào tận gốc, trốc tận rễ”, “Nhân văn
Giai phẩm”, những chuyện quá khứ đi vào lịch sử đầy máu, nước mắt, và chia rẽ
dân tộc. Nhưng né tránh, câu chuyện sẽ còn âm ỷ khôn nguôi, dù thế giới đã sang
thế kỷ 21. Lãnh đạo quốc gia có tầm, có tâm, nên bạch hóa sai lầm quá khứ, lấy
đó làm bài học cho hiện tại và hướng tới tương lai. Đó là một trong những chìa
khóa cho phát triển đất nước.
Dư chấn thời thơ ấu kéo dài 60 năm chưa dứt
Nếu nói rằng tôi nhớ cuộc đấu tố địa chủ làng khi 3-4 tuổi có lẽ bạn đọc không
tin, nhưng tôi từng tham dự và nhớ thật. Chẳng hiểu vì lý do gì mà mẹ tôi cho
mấy chị em đi xem đấu địa chủ trên bãi đất rộng toàn cỏ gà, hồi đó là bãi tha
ma, trước đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành ở xã Trường Yên (Hoa Lư,
Ninh Bình). Người xem đông nghịt, tôi nhớ cảnh người “địa chủ cường hào gian
ác” bị trói chặt hai tay ra phía sau (giật cánh khuỷu?), quỳ dưới một ô đất
1mx1m đào sâu khoảng vài gang tay. Các bà đứng trên và chỉ tay vào mặt “Mày
nhá, ngày xưa mày bóc lột tao, mày cướp đất nhà tao, mày hiếp tao…”. Người quì
dưới cúi gằm mặt xuống đất. Cứ thế lần lượt hàng chục người lên xỉa xói.
Nội ngoại nhà tôi đều suýt làm…địa chủ. Ông ngoại từng đi lính đánh thuê cho Pháp,
sang tận châu Phi mấy năm. Tiếc là ông đã mất, nếu không, tôi có một nguồn tư
liệu quí về một thời toàn cầu hóa của nông dân Ninh Bình. Ông có hai vợ, nhà
trên, nhà dưới, nhưng không hiểu sao tránh được địa chủ. Ông nội từng làm Chánh
tổng xã Trường Yên những cuối năm 1930, cũng thuộc hàng giầu có vì ông biết làm
ăn, chỉ cho con cái đường đi nước bước. Cha tôi và mấy chú bác đi bộ sang Lào
buôn bán từ tuổi thanh niên. Ông có hàng chục ngôi nhà ngói, nhưng Pháp càn đầu
những năm 1940 và đốt hết. Vật dụng duy nhất còn lại là cái tràng kỷ bằng gỗ
lim không cháy nổi. Hiện người con của bác họ vẫn dùng. Có lẽ vì thế mà sau
cách mạng, với mái nhà ngói bốn gian, và như một sự kỳ diệu, ông bà tôi chỉ bị
tố là thành phần trung nông, vì ruộng vườn, nhà cửa chưa đủ ngưỡng địa chủ.
Hình như trước đó ông nội cho bớt nhà cửa cho người khác nên tránh được cuộc
cải cách, hoặc do làng tôi làm không dứt điểm “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”.
Tôi nhớ cái nhà sau chính là của ông bà tôi, nhưng người khác đã ở. Sau này lớn
lên, tôi cũng không hỏi nữa, vì mỗi lần nhắc đến nhà cửa ruộng vườn, ông nội
hay nổi đóa. Lần đó đi xem đấu địa chủ về, mẹ tôi lại cho các con về thăm ông.
Hình như ông tôi gọi mẹ tôi vào trong nhà, vụt cho mấy cái batoong đau lắm. Mẹ
tôi giận ông nội mấy năm trời, mãi mới thôi. Có lẽ ông căm thù chuyện đấu tố vì
ông bà suýt dính, và không muốn con trẻ dính vào giết chóc, hoặc muốn tuổi thơ
được sống trong yên lành. Thời đó ông nội có chữ nhất nhì trong Tổng Trường
Yên.
Lũ trẻ thuộc lòng và bắt chước đấu địa chủ vào giờ ra chơi ở trường, khi đi
chăn trâu, hoặc ở sân làng. Làm súng trường bằng tầu chuối và bắn bằng mồm
“bằng bằng”, bắt “tên địa chủ” là một cậu đồng niên nằm vật ra, nhắm mắt lại,
rồi khiêng đi chôn. Dù chưa bao giờ thấy bắn địa chủ như thế nào, chôn người
chết ra sao, nhưng ký ức tuổi thơ “đấu cường hào” không bao giờ quên, dù đã hơn
nửa thế kỷ trôi qua. Viết mấy dòng để nói rằng, những gia đình có người thân bị
quì dưới đất, bị trói, bị xỉ nhục, bị vu oan và giết oan, họ đã sống như thế
nào mới qua những ngày đen tối.
Những thế hệ tài năng bị ruồng bỏ
Người tố giác, người thi hành án tử “kẻ thù của giai cấp” hầu hết đã về với ông
bà tổ tiên. Nhưng hệ lụy để lại về lý lịch cho con cháu vô cùng khủng khiếp, đã
làm hại nhiều tài năng và tinh hoa của đất nước. Địa chủ ở làng quê là ai? Có
phải tất cả đều độc ác hay không? Có người độc ác, có kẻ giết người, nhưng
không phải tất cả. Cùng mảnh ruộng, người biết làm ăn, tính toán thì có của ăn
của để. Nhưng người không biết phải chịu đói khát, đành đi làm thuê. Nhưng sau
cách mạng, người giỏi hơn thành địa chủ, người kém hơn lên làm chủ, và kết quả
thế nào, chẳng cần bàn cãi.
Giầu nghèo trong xã hội nào chả có, sự bất bình đẳng về thu nhập là câu chuyện
của ngàn đời và sẽ còn mãi. Người tài năng, có hiểu biết sẽ giầu có hơn người
ít kiến thức. Ở nông thôn, “địa chủ” đôi khi là tinh hoa của nền nông nghiệp.
Tàn sát lớp người này đã thui chột nền nông nghiệp. Nếu cha mẹ, ông bà đã chịu
tội dù có oan uổng thì ra một nhẽ. Nhưng kiểu quản lý nửa cách mạng, nửa phong
kiến “tru di tam tộc”, con cháu của lớp người bị cho là có tội không thể ngóc
đầu lên được.
Hè vừa rồi tôi gặp vài người thuộc dòng họ nhà sách Mai Lĩnh nổi tiếng ở Hải
Phòng đến DC chơi. Nói chuyện với khách mới biết nhà sách này từng rất giầu có
và nổi tiếng vùng Bắc Bộ. Mai Lĩnh là tên ghép của làng Xuân Mai và núi Lĩnh ở
Phúc Yên, thuộc dòng họ Đỗ Phúc Lương. Cụ Đỗ Văn Phong sinh bẩy người con trai,
sáu người làm kinh doanh khắp Nam Bắc thời đó.
Người con thứ tư là ông Đỗ Như
Phượng ở lại quê trông nom gia đình và có một người con là Đỗ Như Lân. Vì ở quê
gọi tên cha mẹ theo con trai trưởng và ông Phong là thứ 4 nên gọi là ông Tư
Lân. Là một người hiền từ, biết làm ăn, được dân làng quí mến. Những năm
1939-1945, làng quê nghèo khổ chưa từng có, thấy ông làm ăn phát đạt vì biết
qui hoạch ruộng vườn, cả làng nhờ ông Tư giúp đỡ, có người xin làm con nuôi ông
cho khỏi bị chết đói, hoặc giúp cho công ăn việc làm. Nạn đói 1945, chính ông
Tư là người mở kho thóc nhà mình để phát chẩn cho dân nghèo, dùng tiền mua thuốc
cứu giúp người bệnh. Trang trại Mai Lĩnh từng là cơ sở giúp cho cách mạng như
ép dầu, cất tinh dầu giun, mua rượu cồn, vận chuyển lên chiến khu Việt Bắc.
Quân Pháp từng đốt phá tan hoang cơ nhà Mai Lĩnh. Nhưng cuộc bể dâu Cải cách
ruộng đất đã đẩy ông Lân xuống bùn đen. Từ một người lương thiện, hết lòng vì
dân làng, đóng góp cho cách mạng, nhưng sau một đêm ông Tư Lân biến thành kẻ
thù giai cấp vì đã quá giầu. Có lẽ làng Phúc Yên ngày ấy vẫn còn nhớ hình ảnh
những nhân chứng mà ông Tư từng cưu mang đã buộc tội chính ông. Bị tịch thu
toàn bộ gia sản, ông bị 15 năm tù đầy. Vợ con bị đẩy ra rìa làng. Ông đã bị
hành hạ về thể xác và tinh thần, cuối cùng đã chết trong tù năm 1955. Nhà sách
Mai Lĩnh từ gia đình nổi tiếng ở Phúc Yên cuối cùng cũng bị xóa sổ sau cách
mạng. Con cháu phiêu bạt khắp nơi.
Chị Lương (chị tên là Hiền Lương vì ông bố có
thói quen đặt tên các con theo địa danh các tỉnh) ở Hải Phòng cưới anh Tâm cũng
con nhà tư sản. Họ học rất giỏi nhưng cuối cùng không được vào đại học chỉ vì
lý lịch, cho dù đã sửa sai, nhưng tiếng xấu để lại không ai gột rửa. Nhân
chuyện vượt biên những năm 1980 ở miền Bắc, anh chị rủ nhau đi tìm bến bờ khác.
Hiện họ sống ở Canada. Hôm gặp ở Washington DC, anh Tâm chị Lương nhắc mãi Blog
Hiệu Minh. Người chị gái của chị Lương cũng vừa tới thăm DC với con gái hiện
đang ở bên Anh. Vướng chuyện lý lịch, họ phải bươn chải suốt cuộc đời, bây giờ
mới tạm ổn.
Mấy lời cuối
Viết những chuyện như trên có lẽ phải cần hàng ngàn cuốn sách. Cuộc chiến thời
Pháp, Nhật, Mỹ và sau này với Trung Quốc đã khiến máu chảy thành sông ở mảnh
đất nhỏ bé này. Nhưng máu do chính người Việt tạo ra cũng không ít.
Thời thực dân, luật pháp nằm trong tay kẻ mạnh, sưu cao thuế nặng ở quê, tội ác
để lại không nhỏ. Vì thế khi cách mạng nổ ra, hàng chục triệu người đi theo với
niềm tin “Công bằng, bác ái, và dân chủ, người cày có ruộng”, khỏi phải bàn cãi
về vai trò của ĐCS. Tuy nhiên những gì họ xử lý sau chiến thắng lẫy lừng mới là
điều cần bàn. Sau 1954 là thế, nhưng sau 1975, Cải tạo công thương nghiệp cũng
xóa đi một thế hệ tinh hoa biết làm ăn, và hệ lụy rất lớn về lý lịch để lại cho
con cháu. Hàng triệu người bỏ tổ quốc ra đi. Nhiều người thành đạt nơi xứ người
nhưng không thể đóng góp cho quê hương vì nhiều lẽ mà trong đó dư chấn của Cải
cách ruộng đất mà họ cho là một trong những điều mất mát lớn.
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội vừa khai trương hôm 8/9 triển lãm “Cải cách
ruộng đất 1946-1957″ với mục đích “giúp công chúng tiếp cận với những tài liệu,
hiện vật gốc và có cách nhìn thực tiễn, khoa học, khách quan về cuộc vận động
cách mạng ruộng đất trong tiến trình lịch sử dân tộc”. Rất có thể triển lãm còn
sơ sài, nhưng dầu sao, xã hội đã cởi mở và được quyền nói về những chuyện trong
quá khứ. Những bài học cải cách ruộng đất áp dụng một cách mù quáng từ Trung
Quốc và Liên Xô bị trả giá bằng xương máu dân tộc này. Phải chấm dứt sự phụ
thuộc vào ngoại bang kể cả ý thức hệ. Sự dốt nát không thể kéo qua hai thế kỷ.
Triển lãm cũng là sự mở đầu cho sự kết thúc một trang sử bi tráng, đầy máu và
nước mắt. Lãnh đạo quốc gia có tầm, có tâm, cần bạch hóa sai lầm quá khứ, lấy
đó làm bài học cho hiện tại và hướng tới tương lai.
Đã đến lúc đất nước phải thay đổi, lãnh đạo phải thay đổi và mỗi chúng ta phải
thay đổi. Sự mù quáng về ý thức hệ sẽ đưa đến một cuộc cải cách khác, máu đổ và
thiệt hại mang tầm quốc gia, đau đớn kéo dài hàng thế kỷ, mà một cậu bé 3-4
tuổi ở Trường Yên nhớ hằn sâu trong trí óc tuổi thơ dù đã sau 60 năm.
(3) Trần Hồng Tâm: 45 năm giỗ Bác, Bác làm gì
kệ Bác
Trong cuốn “Trần Đức Thảo Những Lời Trăng Trối” của Tri Vũ – Phan
Ngọc Khuê, có kể câu chuyện đi xin việc làm của triết gia Trần Đức Thảo ở trang
324 và 325. Để bạn đọc dễ theo dõi, tôi xin tóm tắt nội dung:
Sau vụ đàn áp khốc liệt nhóm Nhân văn – Giai phẩm, Thảo bị tống cổ ra khỏi khoa
Triết của Đại học Tổng hợp Hà Nội. Gia đình Thảo rơi vào cảnh túng quẫn, sống
bấp bênh, bữa no bữa đói. Thảo cầm lòng chẳng đặng, đành hạ mình năn nỉ Đặng
Thai Mai cho một suất dạy tiếng Pháp, không liên quan gì đến triết học hay
chính trị cả. Đặng Thai Mai thẳng thừng: “Cụ Hồ không muốn anh dạy học nữa”.
Khó khăn chồng chất khó khăn, tai họa tiếp theo tai họa, không việc làm, không
biên chế, bên bờ của sự khánh kiệt, vợ Thảo ôm đứa con nuôi bỏ nhà đi, Thảo
xoay sở trong tuyệt vọng. Thôi thì xin một chân thơ ký văn phòng ở Viện Bảo
tàng Lịch sử, nơi không quyền hành chính trị, kiếm đồng lương sống qua ngày.
Hơn nữa, Viện này thuộc Bộ Văn hóa nơi mà Thảo quen biết nhiều. Thảo ngỏ lời
với Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên. Ông đồng ý ngay. Thảo liền đến gõ cửa nhà thơ Huy
Cận, một người thân, hiểu hoàn cảnh Thảo, đang giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa.
Huy Cận nhận lời nhưng lại trình lên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, rồi Phạm Văn Đồng
lại lên thỉnh thị ý kiến Bác. Bất hạnh cho Thảo, Bác không trả lời đồng ý hay
không đồng ý mà lại nhập nhằng phán rằng: “Chỗ của Trần Đức Thảo là tại một cơ
quan nghiên cứu triết học thì hợp hơn”.
Ý Bác là một lời nguyền. Mọi cánh cửa
của các cơ quan ở Hà Nội đều cài then chốt khóa, không nơi nào dám nhận, Thảo
bị ném ra rìa, bị loại khỏi xã hội, bị cô lập, bị lưu đày ngay trên chính quê
hương mình. Thực ra, Huy Cận chỉ việc lệnh cho Viện Bảo tàng Lịch sử làm thủ
tục nhận Thảo. Bởi nhận một chân thư ký thì Trưởng phòng Tổ chức Cán bộ, hay
Viện trưởng cũng đủ thẩm quyền quyết định. Giả như có ý kiến gì sau này thì có
cớ Bộ trưởng đã đồng ý trước rồi, đâu phải mình Huy Cận chịu mà ông tìm cách
thoái thác lên trên. Thế là chuyện đơn giản hóa ra nhiêu khê. Lẽ nào, Huy Cận
lại không biết cách cứu Thảo đang giữa cơn hoạn nạn.
Thảo chưa phục hồi bởi cú đập Nhân văn, chưa hoàn hồn bởi trận đấu tố ở Đại
học, nay lại bị giáng thêm một đòn nữa, cũng đau đến nhớ đời. Thật đắng cay,
cái chân thư ký cạo giấy thấp hèn, thấm tháp gì so với ánh hào quang của Bác.
Một anh giáo quèn dậy tiếng Pháp, làm sao có thể trở thành một đối thủ thách đố
ngai vàng của Bác. Bác cao thượng vị tha và nhân từ đến mức không dám làm đau
một chiếc lá trên cành, nỡ lòng nào mà Bác triệt hạ mọi kế sinh nhai của một
người trong cảnh khốn cùng như Thảo.
Bác đã biến một triết gia lừng danh giữa kinh thành Paris ra một kẻ thân tàn ma
dại giữa Thủ đô Hà Nội.
Cũng khoảng thời gian này, Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 ra đời. Đó là một văn
bản chính thức của người đứng đầu chính phủ, liên quan đến an ninh quốc gia và
sự vẹn toàn lãnh thổ, là chiến lược sách lược về ngoại giao và quốc phòng mang
tầm quốc gia và quốc tế. Công hàm này sẽ phải đối mặt với những phán xét nghiệt
ngã của lịch sử. Nó là công hay tội đối với đất nước, là thước đo về lòng trung
thành hay sự phản bội Tổ quốc.
Dư luận cho rằng, chỉ có Phạm Văn Đồng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Bác
vô can. Thảo xin chân thư ký mà mọi người còn phải xin ý kiến Bác. Huống hồ
thông qua một văn bản quan trọng! Không thể nào có chuyện Bác không hay. Ngược
lại, Bác đã toan tính, hoạch định kỹ lưỡng từng đường đi nước bước.
Nếu chính danh, tại sao Công hàm này lại được giấu kín. Miền Bắc trước đây,
không một ai biết về nó. Không học sinh nào biết rằng quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc về Việt Nam. Trong khi con cá rô của Bác nuôi cũng được mô tả kỹ
lưỡng đến từng người dân.
Sách Địa lý Lớp 9 phổ thông toàn tập của Nhà Xuất bản Giáo dục Hà Nội 1974,
chương Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, viết: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây
Sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành Bồ, Châu Sơn làm thành một bức
trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc”. Ai là người soạn thảo chương này? Dựa
vào tài liệu nào hay ý kiến của ai để viết như vậy? Soạn thảo từ thời gian nào?
Tại sao lại mắc phải lỗi chết người này? Vai trò của Nhà Xuất bản Giáo dục ra
sao? Việc thay đổi nội dung của sách giáo khoa có liên quan gì đến sự kiện
Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa cũng vào năm 1974?
Viết sách để giảng dạy cho hàng triệu thanh niên miền Bắc (lớp 9 thời đó tương
đương với lớp 11 hiện nay) tự phủ nhận quyền lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc, mà
công nhận chủ quyền biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa của Trung Quốc. Đây đâu phải
chuyện của Thảo đi xin việc. Không ai tin những người làm ra cuốn sách giáo
khoa này là vô tình mắc phải những lỗi kỹ thuật hay lỗi kiến thức. Từ ngày Bác
mất đến khi cuốn sách ra đời mới chỉ 5 năm. Một khoảng thời gian rất ngắn. Ảnh
hưởng của Bác còn rất sâu đậm trên mọi góc độ của guồng máy giáo dục hay tuyên
truyền.
Từ trước tới nay, người ta cũng tin việc thủ tiêu cô Nông Thị Xuân và hủy hoại
cuộc đời đứa con Nguyễn Tất Trung là do thuộc hạ lộng quyền, lộng hành. Người
ta cũng tin việc khám nhà bắt giữ hai cha con ông Vũ Đình Huỳnh thư ký riêng
của Bác là do phe nhóm Lê Duẩn – Lê Đức Thọ. Việc cỏn con của Thảo mà Bác còn
ra tay, thì những việc kinh thiên động địa trên, ai dám làm sai ý Bác. Tất cả
chỉ biết vâng lời Bác dậy.
Thảo nêu ra một nhận định: Bác rất khéo léo tạo cho mọi người Việt Nam một thói
quen tư duy rằng: Tất cả những gì hay, tốt, đẹp, có giá trị đều là của Bác,
công lao của Bác, do Bác tạo dựng ra: Bộ đội của Cụ Hồ, cháu ngoan của Bác Hồ,
ao cá của Bác Hồ, vườn cây của Bác Hồ, đạo đức của Bác Hồ, tư tưởng của Bác Hồ,
đôi dép đơn sơ Bác Hồ, giản dị như Bác Hồ, thanh bạch như Bác Hồ, thành phố
mang tên Bác Hồ. Thế còn bao nhiêu những nỗi niềm cay đắng, đớn đau của dân tộc
đã phải nếm trải từ ngày có Bác, thì tuyệt nhiên không thấy bóng dáng Bác đâu.
Thảo cũng đưa một quan sát thú vị. Mỗi khi đi công du nước ngoài, tiếp khách
quan trọng ở Phủ Chủ tịch, hay đi thăm viếng các cơ sở trong nước, Bác thường
đạo diễn, giàn dựng cho đoàn tùy tùng, và căn dặn: “Các chú phải ăn mặc, nói
năng, ứng xử thật đúng quy cách còn Bác làm gì kệ Bác.”
Câu chuyện xin việc làm chỉ là một trong muôn vàn những câu chuyện bi hài mà
Thảo kể ra. Nó không dừng lại ở nghĩa đen, mà nó gợi ý. Nó giống như định lý
đảo trong toán học. Lật ngược mọi giả thuyết xem kết quả còn đúng nữa hay
không. Nó mở ra một góc nhìn mới, một cách nhận thức khác về Bác: Bác làm gì kệ
Bác. (September 2014 - © Đàn Chim Việt)
(4) J.B. Nguyễn Hữu vinh: Triển lãm CCRĐ -
Khoét thêm vết thương để bao che tội ác?
Tôi sinh ra sau khi cuộc “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ) được thực
hiện xong. Khi tôi có chút hiểu biết thì những sự kiện đã xảy ra trước đó cả
chục năm vẫn hàng ngày, hàng giờ được nhắc lại như một nỗi kinh hoàng. Nỗi kinh
hoàng đó không phải là bom rơi, đạn lạc, người chết hay lũ lụt… mà nó
hiển hiện và tồn tại trong từng công việc, từng cách nghĩ, việc làm của người
dân Việt Nam đã chịu ảnh hưởng từ “cuộc cách mạng long trời lở đất” trước đó
được gọi là CCRĐ.
“Long” và “lở”
Ở cuộc cách mạng đó, điều duy nhất đạt được thành công rõ nét nhất, chính là sự
phá hủy nhanh chóng một nền văn hóa Việt Nam được xây dựng qua cả ngàn năm và
thường xuyên được coi là nền văn hiến quý báu từ lâu đời. Cuộc CCRĐ với khẩu
hiệu rất đơn giản, hiền lành “Người cày có ruộng” đã nhanh chóng đưa cả xã hội
Việt Nam với con số nông dân chiếm tuyệt đối lao vào một cơn cuồng nộ cướp,
phá, giết… bất chấp tất cả những nguyên tắc xã hội xưa nay là bảo vệ sự công bằng,
bác ái và nhân hậu, trật tự và luân lý.
Ở cuộc CCRĐ đó, những giá trị tinh thần
bị hủy hoại rất thành công. Những hiện tượng con đấu cha, vợ tố chồng vốn là
điều tối kỵ trong truyền thống văn hóa Việt Nam từ ngàn đời không hề được dung
dưỡng, này được dịp tha hồ thể hiện để “lập công”. Có thể nói, cuộc CCRĐ đã
thật sự làm “long” và “lở” không chỉ là trời đất, mà thực sự đã làm long, lở và
sụp đổ, tan rã một hệ thống đạo đức, văn hiến tự ngàn đời. Nhà văn Dương Thu
Hương có viết, đại ý rằng: Đất nước Việt Nam đã qua lịch sử cả ngàn năm, trải
qua bao nhiêu chế độ. Nhưng, chưa có một chế độ nào có thể làm cho con đấu cha,
vợ tố chồng, con gái, con dâu vu cáo cha đẻ, bố chồng cưỡng hiếp mình. Chỉ có
chế độ Cộng sản làm được điều “vĩ đại” đó mà thôi.
Và cứ thế, xã hội đi vào cơn trầm luân của chủ nghĩa vô thần, vô luân, vô luật
pháp. Kể từ đó, cái gọi là “vô sản”, cái sự “nghèo” được coi là môt phẩm chất
tốt đẹp nhất để tiến thân trong xã hội cộng sản. Sự phân tầng xã hội căn cứ vào
mức độ “nghèo” của cá nhân đạt đến mức nào. Có thể nói rằng: Trừ giai đoạn
những người Cộng sản lộ nguyên hình là các tư bản đỏ, phần trước đó, sự nghèo
khó là tấm áo khoác của hầu như toàn bộ bộ máy lãnh đạo, là nấc thang, là tiêu
chuẩn cho việc thăng quan, tiến chức và cầm quyền trong xã hội Việt Nam.
Câu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của Trần Phú Tổng
bí thư Đảng CS được dùng như một câu Kinh Thánh trong mọi hành động xã hội, đã
nhanh chóng đưa Việt Nam vượt ra khỏi ranh giới xã hội loài người. Cái gọi là
“thành phần” xuất hiện trong CCRĐ thời đó, cho đến nay tròn 60 năm sau vẫn ám
ảnh trong từng tờ hồ sơ, lý lịch của các em nhỏ đến trường, dù chúng chẳng hiểu
“thành phần” nghĩa là cái gì và từ đâu ra. Dần dần theo với thời gian, với
những lo toan của cuộc sống đầy gian nan vì kinh tế, giá cả, độc hại, môi
trường… người ta nguôi ngoai dần với những tội ác mà cái gọi là CCRĐ đã gây ra
cho dân tộc. Cả xã hội, cả đất nước gồng mình lên qua bao cuộc chiến tranh và
cố quên đi những nhức nhối, lở loét, hận thù âm ỉ trong lòng người nông dân
xuất phát từ cuộc CCRĐ đã qua.
Bỗng nhiên, hôm nay nhà nước mở “Triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Hà Nội”.
Ngay từ khi nghe tin có cuộc triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Hà Nội, nhiều
người đã tỏ ý nghi ngờ về mục đích và nội dung của nó. Nhiều câu hỏi được đặt
ra: Tại sao sau 60 năm, giờ nhà nước Cộng sản mới nói đến CCRĐ? Phải chăng, họ
muốn thật sự nhìn nhận lại những sai lầm, những hậu quả để rút kinh nghiệm?
Phải chăng, đã đến lúc nhà cầm quyền CSVN hiểu rằng không thể có điều gì giấu
kín mãi được. Khi mà sự bưng bít đang được thực hiện, thì những tác phẩm như Ba
người khác của Tô Hoài, Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên và mới đây là Đèn Cù
của Trần Đĩnh sẽ còn hấp dẫn bạn đọc trong và ngoài nước.
Và để hóa giải những điều đó, đảng đã dám “nhìn thẳng vào sự thật” như lời đảng
tuyên bố cách đây… 30 năm?
Những câu hỏi đó, thôi thúc chúng tôi đến khai mạc “Trưng bày chuyên đề về Cải
cách ruộng đất 1946-1957″ tại 25 Tôn Đản, Hà Nội.
Triển lãm hay cuộc đấu tố mới?
Khi chúng tôi đến, thủ tục khai trương Triển lãm đã bắt đầu. Theo như Ban tổ
chức, thì việc triển lãm là nhằm để “cho thế hệ sau hiểu hơn về CCRĐ”. Thế
nhưng, nhìn vào đám người tập trung khoảng vài ba chục ở buổi khai trương,
người ta mới cảm nhận được rằng: Sau mấy chục năm dưới sự lãnh đạo của đảng,
thế hệ trẻ ngày nay cho rằng sự quan tâm đến những vấn đề ngoài bản thân mình
là điều xa xỉ. Tập trung xem triển lãm, chủ yếu là mấy ông già hoặc công an,
cán bộ, một số các cháu gái phục vụ với áo dài đỏ lăng xăng đi lại cầm băng đỏ
và kéo. hàng loạt các phóng viên truyền hình, quay phim tua tủa. Chỉ có vậy.
Ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lên phát biểu: “Cải
cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long trời lở đất’, mang lại những
giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế độ mới, một cuộc sống mới cho người
dân Việt Nam”.
Chưa rõ cái “dân chủ” cái “giá trị to lớn” của CCRĐ ở đâu, người ta chỉ biết
rằng đó là một cuộc cướp bóc trắng trợn và được cả xã hội tiến hành dưới sự
lãnh đạo của đảng Cộng sản. Hậu quả của nó là hàng trăm ngàn con người bị cướp
bóc, ảnh hưởng, hàng loạt người bị giết chết bằng nhiều cách. Thậm chí là ngay
cả những người là ân nhân của Đảng cũng không thoát bày tay của đảng đưa sang
thế giới bên kia mà miệng vẫn hô vang “bác” và đảng muôn năm(!).
Thế rồi, tất cả vào khu gian trưng bày hiện vật triển lãm. Không gian của
Triển lãm trong một căn phòng khá rộng, hơn 200 mét vuông. Cũng không có gì lạ
khi nhìn hình thức bài trí của Triển lãm này. Nếu như, người ta kinh hoàng đến
tận ngày nay các buổi đấu tố địa chủ khi xưa, thì bây giờ vào xem lại Triển lãm
này, người ta sẽ thấy rõ tư duy đấu tố đang được lặp lại dưới hình thức “Trưng
bày hiện vật”. Đó là khu vực tố cáo đời sống “sung sướng, giàu có bọn địa chủ”,
nào là cái điếu hút thuốc, đôi giày thêu, chiếc ấm đồng, cái sập gụ… tất cả đều
được đưa ra ghép vào tội ác của bọn địa chủ, phong kiến. Một vị nhìn phương
phi, mặc chiếc áo xám có hình cờ Việt Nam như các đại biểu Quốc hội vẫn đeo đi
cùng với vài quan chức của nhà bảo tàng. đám báo chí chĩa máy quay, máy ảnh vào
đó đi từng bước. Tôi đi bên cạnh một vòng theo chiều kim đồng hồ bám dọc tường.
Lời cô thuyết minh viên leo lẻo: “Nhữn hiện vật này chứng minh rằng bọn địa chủ
bóc lột nhân dân ta thậm tệ”. Thế nhưng, có lẽ chính cô ta không hiểu từ “bóc
lột” nó có nghĩa như thế nào và trong những thứ được trưng bày ở đây, thứ nào
là bóc, thứ nào được lột và từ đâu. Đi bên cạnh, cô thuyết minh viên áo đỏ liên
tục: “CCRĐ xóa bỏ chế độ người bóc lột người, là cách mạng về quan hệ sản xuất
và nông dân đổi đời…” và rất nhiều ngôn từ như xưa nay đảng vẫn nói.
Tôi quay lại nói với vị này: “Quan chức Cộng sản ngày nay thì đất đai, nhà cửa,
ăn chơi còn gấp trăm lần địa chủ phong kiến trước đây. Mà tất cả là từ tiền
tham nhũng của dân, còn địa chủ phong kiến ngày xưa có ăn chơi cũng là tiền của
họ. Bây giờ có ông quan hàng trăm ha đất như Chủ tịch Bình Dương thì bọn địa
chủ sao so được anh nhỉ?”. Qua chỗ hai người kéo cày, tôi bảo: “Bây giờ khác
xưa rồi, bây giờ có tận bốn đứa học sinh kéo bừa cơ”. Mọi người cười ồ, ông
quan này cũng gật đầu đồng tình làm mình thấy lạ là một ông quan có thái độ vui
thế. Đi một đoạn, ông hỏi: Ở huyện nào đấy? Không hiểu ông định hỏi quê quán
hay nơi ở nhưng không tiện hỏi lại, nên tôi trả lời: Tôi ở ngay HN đây thôi. Và
cứ thắc mắc không biết ông này là ai. Cho đến khi về nhà mới biết đó là ông Lê
Như Tiến – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi
đồng của Quốc hội. Chính ông này đòi phải ra nghị quyết về Biển Đông hôm trước.
Có thể nói, những hiện vật trưng bày trong cái gọi là Triển lãm này là một mô
hình đấu tố mới, nhằm lấp liếm, bào chữa cho những tội ác đối với ngay cả những
đồng bào của mình, đối với những người có đầu óc và tri thức làm giàu cho quê
hương đất nước. Bỗng dưng một ngày đẹp trời họ được hưởng nhờ thành quả Mác –
Lenin xếp họ vào “giai cấp bóc lột”. Và họ bị cướp đoạt, bị tra tấn, bị bắn, bị
giết và “CCRĐ hoàn thành thắng lợi”. Cố thuyết minh viên chỉ vào hai chiếc áo
rách mà rằng: “Đây là hai chiếc áo của nông dân, bị bọn địa chủ bóc lột thậm
tệ. Nhưng không phải tất cả các địa chủ đều xấu, mà vẫn có những địa chủ tốt”.
Khi hết buổi thuyết minh, tôi nói với cô ta: “Cô thuộc bài, nhưng nói có những
địa chủ tốt là sai”. Cô ta hỏi lại: “Sai chỗ nào ạ”. Tôi đáp: “Cô có hiểu Trần
Phú đã viết Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” hay không mà bảo có
địa chủ tốt? Tốt sao phải đào?”. Cô ta ấp úng: “Nhưng mà những điều đó đã qua
hơn 50 năm rồi ạ”. Tôi hỏi lại: “Vậy sao chiếc áo rách này hơn 50 năm vẫn còn
giữ?”. Cả phòng triễn lãm cười vang.
Thật ra, tranh luận với cô ta thì chẳng có mấy tác dụng. Nhưng điều thú vị, là
chính những người tham gia vào xem triển lãm lại là những người luôn có những
cái thở dài và lắc đầu ngán ngẩm mà không dám phản ứng khi bên cạnh, bên ngoài
là hàng loạt công an. Một người chụp ảnh liên tục các hiện vật lầm bầm trong
miệng: “Đ.M, cứ tưởng là chúng nó phục thiện, biết nhận lỗi, ai ngờ lại bày trò
lưu manh này ra”. Và khi chụp hình xong, anh ta kết luận: “Thôi, cái hay hôm nay,
là chúng nó đưa ra để dân biết rằng cái giai cấp địa chủ, phong kiến ngày xưa
chẳng là cái đ. gì so với bọn quan cộng sản tham nhũng hôm nay”.(Phần 1 -
Hà Nội, Ngày 9/9/2014)
Nguyễn Quang Lập: “Phầntrưng bày
gây nhiều cảm xúc nhất cho người xem có lẽ là góc đối lập về cuộc sống của giai
cấp địa chủ với tầng lớp bần cố nông. Một bên là cuộc sống xa hoa, phong lưu,
thừa mứa chứa chan, ăn sung mặc sướng, một bên là rách rưới bần cùng, áo đụp
hàng chục tấm vá, cơm không đủ ăn, kéo cày thay trâu, nhà cửa xiêu vẹo, dột
nát. Những khung cảnh cách đây gần nửa thế kỷ ấy, đến giờ trông vẫn quen quen.”
Huy Đức:
Bài của Tuổi Trẻ tốt nhất trong số các bài viết về triển lãm này. Nhưng rất
tiếc chưa ai chỉ ra rằng, cái sai của cải cách ruộng đất không phải là phần đã
sửa mà là cái gốc của nó: Đảng đã tự trao cho mình quyền có thể tước đoạt tính
mạng và tài sản của người dân một cách man rợ.
Triển lãm có đưa
những nụ cười của những nông dân được chia "quả thực" nhưng Triển lãm
đã không cho biết niềm vui không đạo lý đó của những bần cố nông cũng ngắn
chẳng tày gang. Từ 1958, đặc biệt là sau khi Hồ Chí Minh (người dưới sức ép của
Mao & Staline đã đưa cải cách ruộng đất vào áp dụng với nhân dân ta) dự hội
nghị 81 đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế tại Mascova trở về, nhất
trí coi việc áp dụng mô hình Xô Viết (vào VN) là "một vấn đề mang tính bắt
buộc", ruộng đất của gần như toàn bộ nông dân miền Bắc lại bị đưa vào hợp
tác xã.
Chau Đoan: “Không một học thuyết
cao siêu nào được cho phép con đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng để tách mình ra
thành một tầng lớp khác, đoạn tuyệt với thành phần cũ. Đời thủa nhà ai con lại
gọi bố, mẹ bằng mày, xưng tao? Bố mẹ lại gọi con là ông bà nông dân, thưa gửi
thành kính. Còn gì cay đắng hơn không?....Điều này tàn phá luân lý, quan hệ,
niềm tin của con người. Những gì quý giá nhất mà phá đi, thì cuộc sống này còn
ý nghĩa gì nữa? Nông dân, bần cố nông mù chữ đứng lên xử những người có học, mà
đa phần toàn là vu khống, rồi xử bắn họ. Cuộc cách mạng long trời lở đất hay là
một cuộc tàn sát?
Cứ nghe chuyện xử bắn bà Năm là lòng mình xót xa. Người phụ nữ đẹp như thế,
giỏi như thế, và bà ta rất yêu cách mạng nữa chứ. Buôn thép, lụa, cưu mang Việt
Minh nhiều như thế. Cống hiến số vàng, tiền lớn thế lại bị bắn đầu tiên.
Tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng những người cộng sản lúc ấy bị sức ép từ Xô Cộng
và Trung Cộng, và đây chính là sự phi lý, nỗi nhục, nỗi khổ của dân tộc này.
Điều này cho mỗi cá nhân chúng ta một bài học. Đừng nghe bố con thằng nào,
trước hết phải tin ở mình, phải vận dụng đầu óc, suy nghĩ để tự tách bạch đúng
sai trong cuộc đời.
Đảng cần nhìn thẳng vào quá khứ. Thời đại thông tin, không thể mập mờ được đâu.
Đảng phân minh với quá khứ thì Đảng mới dẫn dắt chúng em tới tương lai tươi
sáng được Đảng ạ. Tóm lại, cái triển lãm này là một thất bại hoàn toàn. Không
nói thì thôi, đừng nói nửa chừng. Người hiểu biết, vào chỉ thấy bực mình.”
Trinh Nguyễn: “Nhưng hạn chế lớn nhất
của triển lãmchính là thiếu vắng các câu chuyện kể. Sự “nhạy cảm” của đề tài
cải cách ruộng đất có lẽ cũng giống như đề tài thời bao cấp. Đó là những thời
kỳ chúng ta đã từng có cái sai, để rồi nhìn thấy nó và sửa chữa nó. Nhưng nếu
triển lãm bao cấp của Bảo tàng Dân tộc học cách đây cả chục năm tái hiện được
câu chuyện thân phận con người thì triển lãm này chưa chạm vào đó. Không ai rõ,
những con người cụ thể, có những hiện vật được trưng bày ở đây, đã đi qua thời
kỳ đó ra sao. Họ, con cháu họ, hiện sống thế nào, quan niệm gì về thời kỳ lịch
sử ấy.”
Nguyễn Minh Cần: "...Của nỗi thì rõ rồi, nhưng của chìm là
vàng bạc, tiền thì rất khó cho nên phải truy tài sản. Nhưng nói thực ra anh em
họ vẫn gọi là “truy của” hay “tra của”. Truy ngày, truy đêm liên tục. Tôi còn
nhớ khi tôi đi cải cách ruộng đất ở Thái Bình thì có nghe một câu than như thế
này, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ:
"Truy đêm rồi lại truy ngày. Tra lui tra tới của mày để đâu. Sân vườn,
chuồng lợn, bờ ao. Đào tung, xới hết chẳng sao: có vàng. Trời ơi, oan thật là
oan. Thân con quá khổ biết làm sao đây
Còn việc lập hồ sơ các loại địa chủ, cường hào thì chủ yếu dựa vào lời tố của
bần cố nông. Nhưng có một điều có thể nói là người ta đánh vào lòng tham lam,
vào lòng hận thù...Và người ta nói rằng ai tố nhiều thì sau này là chia tiền,
chia ruộng đất, chia tài sản...thì sẽ được nhiều. Cho nên, nói thật đánh vào
lòng tham, đánh vào lòng hận thù, cho nên cũng nhiều người tố rất bừa bãi. Ở
nông thôn lúc bấy giờ gọi là “tố điêu” hoặc “tố đại hội”, “tố bừa”.
Nhưng khốn nỗi, tất cả những lời tố đó đều coi như những bằng chứng để kết tội
người địa chủ, hoặc người đối tượng mà mình coi là phản động hay đảng
phái...Cho nên sau khi lên hồ sơ rồi, tức là đưa lên đoàn cải cách ruộng đất,
tức là đoàn duyệt xong và chuẩn bị cho việc đấy và xử án...Tổ chức tòa án là tổ
chức cuộc đấu. Trước đó bao nhiêu ngày phải chuẩn bị, người ta làm như là một
diễn tập cho một vỡ kịch, tức là mỗi người nông dân lên tố như thế nào, rồi ý
cho họ chỉ mặt như thế nào, tức là xỉa vào mặt của địa chủ, bắt quì xuống như
thế nào…tất cả những cái đó được đạo diễn trước một cách rất cẩn thận. có cả
một kế hoạch, diễn tập như diễn một vỡ tuồng. Như vậy đấu, có khi đấu 2-3 ngày
tùy theo “tình trạng nghiêm trọng” của địa chủ hay số người...Sau khi kết án
thì hành quyết ngay ở trước mặt."
(5) Mail từ Bạn bè: (i) Nguyễn Hoài Sâm
Anh ơi,
Anh khỏe không ạ? Chắc anh có niềm vui mới và đã không có thời gian dành cho
Văn Nhạc nữa rồi, như vậy cũng xin chúc mừng anh, hihi
Lâu rồi không thấy trang Thơ Nhạc của anh gửi, thấy thiếu thiếu...
Vẫn nhớ một lời hẹn anh về VN chơi mà lâu quá...
Em cũng bận và lu bu, có lẽ tg đã làm cảm xúc bị mai một, không biết khi nào
mới chụp tiếp ảnh mới để anh làm PPS giúp nữa...hichic
Gui anh vai dong em moi viet xong...
Em,
NHS
*******
Mong manh
Tôi viết dòng chữ này xin chia buồn với chị họ tôi, sáng mai thức dậy thì người
Mẹ thân yêu đã vội vã ra đi, không kịp nói một lời từ biệt.
Tôi viết dòng chữ này xin chia sẻ với bạn tôi, ngày đêm chứng kiến Cha già một
yếu hơn bởi căn bệnh ung thư và sự đau đớn tột cùng của thể xác khi thần chết
đến gần trong nỗi tuyệt vọng vô bờ…
Tôi viết dòng chữ này xin chia nỗi tuyệt vọng với bạn đồng nghiệp tôi khóc nức
ở sân bay, không kịp nhìn thấy người cha thân yêu lần cuối ở quê nhà.
Tôi viết dòng chữ này để chia sẽ nỗi buồn cho bạn tôi ngày đêm túc trực trong
bệnh viện, bên giường bệnh của Cha, không dám chợp mắt dù một phút vì sợ Cha sẽ
đi về bên kia thế giới bất cứ lúc nào.
Tôi viết dòng chữ này để chia sẽ nỗi đau khổ cho Bác tôi, hôn con gái yêu lần
cuối trên giường bệnh và cầu Trời khấn Phật ước gì mình có thể chết thay cho
con…
Tôi viết dòng chữ này để chia sẽ nỗi đau khổ tột cùng cho một người mẹ chở con
trên đường bị tai nạn giao thông, con ngã xuống vỡ hộp sọ, mất trên xe cấp cứu
trong khi mẹ nguyên vẹn.
Bình minh vẫn rực rỡ, huy hoàng tỏa sáng mỗi ngày,
hoa trái vẫn ngọt ngào, thơm ngát không giữ được con người, tình yêu nồng nàn
say đắm cũng không giữ nổi đời người… rồi một ngày kia lớp bụi thời gian cũng
sẽ xóa nhòa tất cả. Hãy sống hết mình, hãy làm tất cả những gì có thể cho
người, cho đời từng phút, từng giây…
(ii) Hồ Chí Bửu: Ta
gọi Em là O Huế
Nơi O ở là nơi ta chưa đến
O bảo rằng có tuyết trắng mùa đông
Và mùa hạ nắng vàng hôn hoa lá
Nhớ quê hương- chiều nhìn khói đốt đồng !
Nơi O ở là nơi ta không
thể đến
Nhưng cứ buồn theo gót
nhỏ O đi
Nơi O ở - không phải là
nơi O nhớ
Bởi trong O - nước sông
Hương vẫn chảy xanh rì..
O ở Mỹ- nhưng hồn không ở Mỹ
Nắng Cali- nhưng O nhớ nắng cổ thành
Ta cũng thế - không phải là dân Huế
Bởi yêu O – nên yêu chiều Vỹ Dạ - mây xanh ..
O bỏ Huế trong ngậm ngùi
ly biệt
Nhưng nhớ hoài trăng đẹp
Phú Vân Lâu
Trăng xứ Huế chắc tròn
hơn trăng Mỹ ?
Nên O đi - nhớ mãi mối
tình đầu ?!
Ta cố lạc vào kinh thành cổ kính
Nhìn nơi nào cũng thấy gót O qua
Hồ Tịnh Tâm- sen hồng reo trong gió
Chào đón ta- Ừ, một gã xa nhà.
Mai mốt O về đưa ta ra
Huế
Ngắm mái tóc thề- áo trắng bay bay
Để ta bảo O ni răng mờ tệ
Chưa chạm môi hồng - hồn đã ngà say…
......................................................................................................
Kính,
NNS
__._,_.___
Posted by: Phung Tran