MỘT VÌ SAO RƠI...
1946 - 2014
Ca sĩ Quỳnh Giao
Vô cùng thương tiếc và xúc động khi nghe tin Quỳnh Giao đã qua đời
lúc 3 giờ sáng nay, 23 tháng 7/ 2014
Quỳnh Giao , ái nữ của nữ danh ca Minh Trang.
Không thể nào quên được những ca khúc Quỳnh Giao hát cùng chị Kim Tước và Mai
Hương trong ban tam ca Tiếng tơ Vàng. (ban đầu là Tiếng Tơ Đồng do nhạc sĩ
Hoàng Trọng phụ trách)
Bh
*Bây giờ, cùng nghe lại tiếng đàn piano của QG và giọng hát như tơ của cô trong
ca khúc Dạ Khúc của Nguyễn Mỹ Ca.
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/da-khuc-quynh-giao.d5CKhd60lSVN.html
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
Quỳnh Giao tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, sinh năm 1946 tại
làng Vỹ Dạ, Huế. Quỳnh Giao là con gái của Minh Trang, nữ danh ca của tân nhạc
những năm đầu. Năm Quỳnh Giao 5 tuổi, cha của bà qua đời và mẹ bà tái giá với
nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Ngay từ bé, với tên thật Đoan Trang, Quỳnh Giao đã hát trên đài Phát thanh Quốc
Gia Sài Gòn, trong những chương trình Tuổi Xanh của Ban Nhi Đồng Kiều Hạnh.
Quỳnh Giao cũng từng tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm và được bà Robin của
Trung Tâm văn Hóa Pháp, Alliance Française, hướng dẫn về thanh nhạc và opera.
Quỳnh Giao thực sự đến với âm nhạc khi 15 tuổi. Đó là năm 1961, bà Minh Trang
đang cộng tác với ban Tây Hồ của nhạc sĩ Hoàng Trọng thì mất giọng do căn bệnh
hen suyễn nên Quỳnh Giao được mời vào thay thế cho mẹ. Từ đó bà đi hát với nghệ
danh Quỳnh Giao và trở thành một ca sĩ quan trọng trong những chương trình ca
nhạc của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Đội và Tiếng Nói Tự Do trước năm
1975. Trong những năm đầu 1970 Quỳnh Giao cũng với các em gái Vân Quỳnh, Vân
Khanh và Vân Hòa thành lập Ban tứ ca Bốn Phương chuyên hát tại vũ trường Ritz
và thâu âm cho các trung tâm Băng nhạc Jo Marcel, Phạm Mạnh Cương và Premier.
Ngày 24 tháng 4 năm 1975, Quỳnh Giao cùng chồng và con rời Việt Nam sang cư ngụ
tại thành phố Annandale, tiểu bang Virginia. Trong thời gian ở Annandale, bà gần
như ngưng mọi hoạt động về ca nhạc ngoài việc tiếp tục mở lớp dạy dương cầm và
thỉnh thoảng thực hiện vài băng nhạc có tính cách lưu niệm do chính bà tự đàn
và hát.
Năm 1990, sau khi lập gia đình lần thứ hai, Quỳnh Giao cùng chồng về sống tại
California. Từ đó, bà bắt đầu quay lại với âm nhạc và phát hành nhiều CD thành
công như Khúc nguyệt quỳnh, Hành trình Phạm Duy... Quỳnh Giao cũng cùng với Mai
Hương, Kim Tước lập ban Tiếng Tơ Đồng ở hải ngoại và thu được nhiều thành công.
TẢN MẠN VỚI NỮ CA SĨ QUỲNH GIAO VỀ CA KHÚC VIỆT NAM TRƯỚC
Nói về nền âm nhạc ca khúc Việt Nam, rất nhiều người có cùng nhận xét: khán giả
cả trong nước lẫn hải ngọai vẫn thích nghe những ca khúc sáng tác trước 1975
hơn là sau này. Cũng chỉ trong khỏang thời gian ba thập niên, những nhạc sĩ
Việt Nam trong giai đọan 1945-1975 đã để lại một gia sản ca khúc đồ sộ, vô giá,
mà có lẽ các thế hệ sau còn lâu mới bắt kịp.
Bình luận về ca khúc Việt Nam trong giai đọan này, đó phải là công trình cả
ngàn trang giấy của các nhà phê bình âm nhạc. Những người hâm mộ thuộc thế hệ
hậu bối như tôi, thường thì say mê ca khúc chỉ bằng cảm nhận khi nghe qua tiếng
hát của một ca sĩ nào đó. Tôi nghĩ những ca sĩ thường hiểu bài hát & tác
giả hơn là người nghe.
Sang đến thể kỷ 21 này, tôi giật mình khi nhận thấy rằng
những ca sĩ mà mình yêu mến ngày nào như Thái Thanh, Khánh Ly, Anh Ngọc, Duy
Trác, Sĩ Phú… đang dần dần trở thành quá khứ! Tôi vội vàng tìm cách xin gặp nữ
ca sĩ Quỳnh Giao, người em út trong lớp ca sĩ thế hệ vàng, để ghi nhận lại một
vài suy nghĩ của chị về ca khúc Việt trước 1975…
Hiện nay, chị Quỳnh Giao cũng đã ít xuất hiện trên sân khấu đi nhiều. Lần gần
đây nhất là trong đêm nhạc Dương Thiệu Tước -Tiếng Xưa Của Chúng Ta- vào tháng
7/08. Họat động âm nhạc thường xuyên nhất của chị bây giờ là dạy piano tại nhà
riêng của chị. Có một điều khán giả hâm mộ như tôi ít biết đến: chị Quỳnh Giao
là một pianist được đào tạo chuyên nghiệp có hạng của Trường Quốc Gia Aâm Nhạc
Sài Gòn trước 1975.
Có lẽ là do chị hay xuất hiện trước khán giả như là một ca
sĩ hơn. Nhưng nếu có dịp được nghe lại những CD chị tự đệm đàn piano cho mình
hát, chúng ta sẽ thấy rằng cả tiếng hát và tiếng đàn đều đẹp như nhau.
Khi được hỏi đâu là giá trị của những ca khúc Việt trước 1975, khiến cho khán
giả ngày nay vẫn còn say mê nghe và hát, chị Quỳnh Giao trả lời có lẽ là ở tâm
hồn của người nhạc sĩ. Hãy tưởng tượng khi Cung Tiến viết Hương Xưa năm 18
tuổi, Phạm Duy viết Khối Tình Trương Chi ở lứa tuổi đôi mươi, thì tâm hồn của
những nhạc sĩ này đã trưởng thành như thế nào so với thanh niên cùng lứa của
thế hệ hôm nay. Có thể nói rằng xã hội ngày nay với nền khoa học tiến bộ đã làm
thế hệ trẻ rất giàu về mặt kỹ thuật, nhưng lại nghèo đi về mặt tâm hồn. Người
nghệ sĩ ngày xưa, với những phương tiện đơn giản, đã dùng niềm đam mê, sự rung
động thật của tâm hồn để sáng tác, cho nên những ca khúc của họ có chiều sâu để
đi vào lòng người.
Tuy nhiên, chị Quỳnh Giao còn cho rằng yếu tố kỷ niệm cũng đã góp phần làm cho
đời sống của các ca khúc trước 1975 dài hơn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng
ta hay gắn một phần đời tươi đẹp của mình trong quá khứ với một bản nhạc, một
lời ca. Khi viết bài Ly Rượu Mừøng, có lẽ nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã cảm hứng
từ không khí xuân rộn ràng, lạc quan vào tương lai của Miền Nam Tự Do.
Để rồi
từ đó, cứ mỗi độ xuân về, mỗi lần nâng chén chúc nhau trong ngày đầu năm, người
dân miền Nam lại cùng nhau nghe, cùng nhau hát Ly Rượu Mừøng, để cùng có cảm
giác “…hương thanh bình đang phơi phới…”. Bài hát này đã trở thành biểu tượng
của mùa xuân miền Nam như vậy đó. Những cảm xúc của chúng ta dành cho bài hát
này có thể không có ở những người sống ở miền Bắc, hoặc thế hệ trẻ lớn lên ở hải
ngoại.
Một bài hát muốn trở thành bất tử thì bản thân nó phải là một bài nhạc hay. Chị
Quỳnh Giao phân biệt ca khúc ra làm hai lọai: ca khúc phổ thông và ca khúc nghệ
thuật. Ca khúc phổ thông thì dễ nghe, dễ hát. Đặt một giai điệu, rồi đặt lời
vào là đã có một bài hát. Những ca khúc nghệ thuật thì đòi hỏi nhiều hơn. Phải
có sự phối hợp giữa nhạc và lời. Tiết tấu, giai điệu và cả phần hòa âm cùng góp
phần hình tượng hóa nội dung của lời hát. Là một trong những ca sĩ hay trình
diễn ca khúc nghệ thuật, chị Quỳnh Giao cảm nhận được sâu sắc giá trị của những
ca khúc này.
Nghe Bến Xuân Xanh của Dương Thiệu Tước, ta có cảm giác mình đang
lướt trôi trên một dòng sông, qua những bến sông êm đềm, cảm nhận những nhịp
sóng vỗ vào mạn thuyền theo mái chèo đưa. Nghe Qua Suối Mây Hồng trong Đạo Ca
của Phạm Duy, ta như đang xem cuộc chiến tranh dành Mỵ Nương của Sơn Tinh và
Thủy Tinh, nghe Thủy Tinh làm mưa, dâng nước lũ qua lời hát “…sóng ầm ầm, sóng
ầm ầm nổi dậy…”.
Hoặc nghe Hội Trùng Dương của Phạm Đình Chương, ta phân biệt
được rõ ràng đời sống ba miền Bắc- Trung-Nam trên ba dòng sông Hồng, Hương
Giang và Cửu Long… Những ca khúc như vậy là một tác phẩm nghệ thuật, không nhiều
trong nền âm nhạc Việt Nam sau 1975. Chị Quỳnh Giao nói những nhạc sĩ lớn thường
có trình độ về âm nhạc lẫn bề dầy về văn hóa, cho nên họ mới có được những tác
phẩm để đời.
Nhiều nhà phê bình âm nhạc quốc tế cho rằng những tác giả lớn của nền âm nhạc
cổ điển Tây Phương như Beethoven, Tchaikovski… đều đem được nguồn nhạc dân gian
của dân tộïc mình vào trong tác phẩm. Theo chị Quỳnh Giao, điều này cũng đúng
với ca khúc Việt Nam. Dân ca là suối nguồn tâm linh của người nhạc sĩ.
Để có
giá trị lớn ở tầm vóc quốc tế, những ca khúc Việt cần tạo chỗ đứng của riêng
mình bằng cách dựa trên nền dân nhạc. Tác giả nào thành công nhất trong lĩnh
vực này? Đó chính là Phạm Duy. Oâng là người đã đem dân ca vào ca khúc của mình
một cách tự nhiên nhất, thậm chí cải biên để cho dân ca trở nên phổ biến hơn
trong nền tân nhạc Việt Nam.
Những tác phẩm viết về quê hương như Tình Hoài
Hương, Tình Ca, Nương Chiều,… đều trở thành bất tử dưạ trên nền dân ca Việt
Nam. Còn nhiều nhạc sĩ khác cũng làm được điều này. Nhạc sĩ Lê Thương sáng tác
không nhiều, nhưng Hòn Vọng Phu của ông xứng đáng là một tác phẩm để đời, mang
đậm chất dân ca. Mặc dù Dương Thiệu Tước được nhắc đến nhiều với những ca khúc
mang đậm nét cổ điển Tây Phương, nhưng hai nhạc phẩm rất được yêu thích của ông
là Đêm Tàn Bến Ngự và Tiếng Xưa đều có âm hương dân ca.
Một đặc điểm nữa của những ca khúc trước 1975 là rất giàu cá tính. Nhiều nhạc
sĩ tạo được màu sắc riêng trong những tác phẩm của mình. Giai điệu và lời của
nhạc Trịnh Công Sơn như của một kẻ rong ca, không lẫn được với nhạc của ai
khác. Ca khúc của Lê Uyên Phương đầy những tình cảm mãnh liệt của đôi uyên ương
chưa muốn rời xa nhau. Nhạc Văn Phụng là nhạc của những người hạnh phúc, yêu
đời… Những ca khúc đầy cá tính này lại còn được trình bày bởi những giọng ca cũng
đầy cá tính nữa chứ.
Chị Quỳnh Giao có cùng nhận xét với tôi là những ca sĩ trong
nước bây giờ, giọng hát có thể rất điêu luyện, nhưng lại giống nhau quá! Chứ
ngày xưa, từ Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu cho đến Thanh Thúy, Mai Lệ Huyền…, khán
thính giả chẳng thể lẫn lộn được.
Tại sao vậy? Bởi vì ca sĩ ngày xưa ít có ai
được học hát trong những trường dạy thanh nhạc chuyên nghiệp. Họ tự nhiên hình
thành giọng ca của mình. Bản thân chị Quỳnh Giao cũng chỉ đi học thêm kỹ thuật
hát sau khi đã thành danh. Lại càng ít có chuyện ai bắt chước giọng ai. Người
nghe thời ấy tha hồ mà lựa chọn giọng ca cho riêng mình. Nhạc sĩ cũng lựa chọn
ca sĩ cho hợp với ca khúc của mình. Ai hát nhạc Trịnh hay hơn Khánh Ly?
Ai có
thể hát Bà Mẹ Gio Linh thống thiết hơn Thái Thanh? Nhạc Sĩ Vũ Thành thì cho rằng
Quỳnh Giao hát Tiếng Chuông Chiều Thu mới là “tuyệt chiêu”. Đời sống tinh thần
thời đó nhờ thế mà phong phú làm sao!
Tôi hỏi chị nam ca sĩ nào chị thích nhất, chị trả lời: Anh Ngọc. Giọng hát của
ông là giọng hát của một “đại trượng phu”.
Ông hát nhạc tình một cách từng
trải, như người đã đứng trên những niềm vui nỗi buồn trong tình yêu mà kể lại,
độc đáo vô cùng…Trong khi đó, giọng Sĩ Phú tình cảm hơn, kể chuyện tình nhiều
cảm xúc hơn. Vì vậy, Sĩ Phú hát Cô Láng Giềng là nhất rồi. Thế còn nữ ca sĩ?
Chị Quỳnh Giao nói ngay: Thái Thanh. Cô Thái là một hiện tượng, không ai có thể
so sánh được. Nhưng nhiều khán giả chưa thích giọng hát này khi còn trẻ. Phải
trưởng thành một chút, càng nhiều kinh nghiệm, vui buồn trong đời, nghe giọng
cô Thái càng hay…
Nói chuyện với chị Quỳnh Giao về ca khúc Việt Nam trước 1975 như nói với người
tri kỉ, không dứt ra được. Khi chia tay, chị còn gởi cho tôi vài CD của một số
ca khúc Vũ Thành hòa âm trước 1975. Chị bảo rằng sau này nhiều nhạc sĩ cũng có
dàn dựng lại, với kỹ thuật âm thanh cao hơn, nhưng không thể so sánh được với
version này. Chị bảo đó là những món quà vô giá dành cho khán thính giả Việt
Nam.
Tôi nghĩ thầm (dù chị không hề nhắc): chị cũng là một phần trong món quà vô giá
đó, đối với thế hệ sau như tôi…
Đoàn Hưng
Như vậy, ca sĩ Quỳnh Giao là con
gái cuả cụ Ưng Quả, cố Giám Đốc Nha Học Chánh Trung Việt bị đặc công cộng sản
bắn chết ngay tại văn phòng trong thời kỳ Thủ Hiến Trung
Việt Phan Văn Giáo ?
On Wednesday, July 23, 2014 12:57 PM, "tuong pham <>
wrote:
Xin chuyển Email vừa mới nhận được báo tin nữ ca sĩ
Quỳnh Giao vừa mới qua đời vào lúc 3 giờ sáng hôm nay( thứ tư 23/7/2014 )
vì bệnh ung thư phổi
Ngay từ bé, với tên thật Đoan Trang, Quỳnh Giao đã hát trên đài
Phát thanh Quốc Gia Sài Gòn, trong những chương trình Tuổi Xanh của Ban Nhi Đồng
Kiều Hạnh. Quỳnh Giao cũng từng tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm và được bà Robin của Trung Tâm văn
Hóa Pháp, Alliance
Française, hướng dẫn về thanh nhạc và opera.
Quỳnh Giao thực sự đến với âm nhạc khi 15 tuổi. Đó là năm 1961,
bà Minh Trang đang cộng tác với ban Tây Hồ của nhạc sĩ Hoàng Trọng thì mất giọng do căn bệnh hen suyễn nên Quỳnh Giao được mời vào thay
thế cho mẹ. Từ đó bà đi hát với nghệ danh Quỳnh Giao và trở thành một ca sĩ
quan trọng trong những chương trình ca nhạc của các đài phát thanh Sài Gòn,
Quân Đội và Tiếng Nói Tự Do trước năm 1975.
Trong những năm đầu 1970 Quỳnh Giao
cũng với các em gái Vân Quỳnh, Vân Khanh và Vân Hòa thành lập Ban tứ ca Bốn
Phương chuyên hát tại vũ trường Ritz và thâu âm cho các trung tâm Băng nhạc Jo Marcel,
Phạm Mạnh Cương và Premier.
Ngày 24 tháng 4 năm 1975,
Quỳnh Giao cùng chồng và con rời Việt Nam sang cư ngụ tại thành phố Annandale,
tiểu bang Virginia. Trong thời gian ở Annandale, bà gần như
ngưng mọi hoạt động về ca nhạc ngoài việc tiếp tục mở lớp dạy dương cầm và
thỉnh thoảng thực hiện vài băng nhạc có tính cách lưu niệm do chính bà tự đàn
và hát.
Năm 1990, sau khi lập gia đình lần thứ hai, Quỳnh Giao
cùng chồng về sống tại California. Từ đó, bà bắt đầu
quay lại với âm nhạc và phát hành nhiều CD thành công như Khúc nguyệt quỳnh,
Hành trình Phạm Duy... Quỳnh Giao cũng cùng với Mai Hương, Kim Tước lập ban
Tiếng Tơ Đồng ở hải ngoại và thu được nhiều thành công.
Wednesday, July
23, 2014 11:55 AM, "HD Nguyen <>
wrote:
6 giờ sáng hôm nay
phone reo rất sớm của Mai Hương báo Nguyễn Xuân Nghĩa nói
Quỳnh Giao đã bỏ Nghĩa ra đi lúc 3 giờ sáng! Thật bàng hoàng dù
đã biết Quỳnh Giao bị ung thư phổi thời kỳ cuối từ hôm Tết vừa qua. Xin
chia xẻ nỗi mất mát lớn lao với Nguyễn Xuân Nghĩa, cầu chúc hưong linh Quỳnh
Giao sớm thăng hoa về cõi vĩnh hằng.
Mời nghe Quỳnh Giao
nói về thân thế qua cuộc phỏng vấn dưới đây:
Phỏng vấn ca sĩ Quỳnh Giao
Những
bài hát do ca sĩ Quỳnh Giao trình bày:
TẢN MẠN VỚI NỮ CA SĨ QUỲNH GIAO
VỀ CA KHÚC VIỆT NAM TRƯỚC 1975
Nói về nền âm nhạc ca khúc Việt Nam, rất nhiều người có cùng nhận xét: khán giả cả trong nước lẫn hải ngọai vẫn thích nghe những ca khúc sáng
tác trước 1975 hơn là sau này.
Cũng chỉ trong khỏang thời gian ba thập niên, những nhạc sĩ Việt Nam trong giai
đọan 1945-1975 đã để lại một gia sản ca khúc đồ sộ, vô giá, mà có lẽ các thế hệ sau còn lâu mới bắt kịp.
Bình luận về ca khúc Việt Nam trong giai
đọan này, đó phải là công trình cả ngàn trang giấy của các nhà phê
bình âm nhạc. Những người hâm mộ thuộc thế hệ hậu bối như tôi, thường thì say mê ca
khúc chỉ bằng cảm nhận khi nghe qua tiếng hát của một ca sĩ nào đó.
Tôi nghĩ những ca sĩ thường hiểu bài hát & tác
giả hơn là người nghe. Sang đến thể kỷ 21 này, tôi giật mình khi nhận thấy rằng những ca sĩ mà mình
yêu mến ngày nào như Thái Thanh,
Khánh Ly, Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú… đang dần dần trở thành quá khứ! Tôi vội vàng tìm cách xin gặp nữ ca sĩ Quỳnh
Giao, người em út trong lớp ca sĩ thế hệ vàng, để ghi nhận lại một vài suy nghĩ của chị về ca khúc Việt trước 1975…
Hiện nay, chị Quỳnh Giao cũng đã ít xuất hiện trên sân khấu đi nhiều. Lần gần đây nhất là trong đêm
nhạc Dương Thiệu Tước -Tiếng Xưa Của Chúng Ta- vào
tháng 7/08. Họat động âm nhạc thường xuyên nhất của chị bây giờ là dạy piano tại nhà riêng của chị. Có một điều khán giả hâm mộ như tôi ít biết đến: chị Quỳnh Giao là một pianist được đào tạo chuyên nghiệp có hạng của Trường Quốc Gia Aâm Nhạc Sài Gòn trước 1975. Có lẽ là do chị hay xuất hiện trước khán giả như là một ca sĩ hơn. Nhưng nếu có dịp được nghe lại những CD chị tự đệm đàn piano cho
mình hát, chúng ta sẽ thấy rằng cả tiếng hát và tiếng đàn đều đẹp như nhau.
Khi được hỏi đâu là giá trị của những ca khúc Việt trước 1975, khiến cho khán giả ngày nay vẫn còn say mê
nghe và hát, chị Quỳnh Giao trả lời có lẽ là ở tâm hồn của người nhạc sĩ. Hãy tưởng tượng khi Cung Tiến viết Hương Xưa năm 18 tuổi, Phạm Duy viết Khối Tình Trương Chi ở lứa tuổi đôi mươi, thì tâm hồn của những nhạc sĩ này đã trưởng thành như thế nào so với thanh niên
cùng lứa của thế hệ hôm nay. Có thể nói rằng xã hội ngày nay với nền khoa học tiến bộ đã làm thế hệ trẻ rất giàu về mặt kỹ thuật, nhưng lại nghèo đi về mặt tâm hồn. Người nghệ sĩ ngày xưa, với những phương tiện đơn giản, đã dùng niềm đam mê, sự rung động thật của tâm hồn để sáng tác, cho nên những ca khúc của họ có chiều sâu để đi vào lòng người.
Erreur !
Nom du fichier non spécifié.
Tuy nhiên, chị Quỳnh Giao còn
cho rằng yếu tố kỷ niệm cũng đã góp phần làm cho đời sống của các ca khúc trước 1975 dài hơn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta
hay gắn một phần đời tươi đẹp của mình trong quá
khứ với một bản nhạc, một lời ca. Khi viết bài Ly Rượu Mừøng, có lẽ nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã cảm hứng từ không khí xuân
rộn ràng, lạc quan vào tương lai của Miền Nam Tự Do. Để rồi từ đó, cứ mỗi độ xuân về, mỗi lần nâng chén chúc
nhau trong ngày đầu năm, người dân miền Nam lại cùng nhau
nghe, cùng nhau hát Ly Rượu Mừøng, để cùng có cảm giác “…hương thanh bình
đang phơi phới…”. Bài hát này
đã trở thành biểu tượng của mùa xuân miền Nam như vậy đó. Những cảm xúc của chúng ta dành cho
bài hát này có thể không có ở những người sống ở miền Bắc, hoặc thế hệ trẻ lớn lên ở hải ngoại.
Một bài hát muốn trở thành bất tử thì bản thân nó phải là một bài nhạc hay. Chị Quỳnh Giao
phân biệt ca khúc ra làm hai lọai: ca khúc phổ thông và ca
khúc nghệ thuật. Ca khúc phổ thông thì dễ nghe, dễ hát. Đặt một giai điệu, rồi đặt lời vào là đã có một bài hát. Những ca khúc nghệ thuật thì đòi hỏi nhiều hơn. Phải có sự phối hợp giữa nhạc và lời. Tiết tấu, giai điệu và cả phần hòa âm cùng
góp phần hình tượng hóa nội dung của lời hát. Là một trong những ca sĩ hay
trình diễn ca khúc nghệ thuật, chị Quỳnh Giao cảm nhận được sâu sắc giá trị của những ca khúc này.
Nghe Bến Xuân Xanh của Dương Thiệu Tước, ta có cảm giác mình đang lướt trôi trên một dòng sông, qua
những bến sông êm đềm, cảm nhận những nhịp sóng vỗ vào mạn thuyền theo mái chèo
đưa. Nghe Qua Suối Mây Hồng trong Đạo Ca của Phạm Duy, ta như đang xem cuộc chiến tranh dành Mỵ Nương của Sơn Tinh và Thủy Tinh, nghe Thủy Tinh làm mưa, dâng nước lũ qua lời hát “…sóng ầm ầm, sóng ầm ầm nổi dậy…”. Hoặc nghe Hội Trùng Dương của Phạm Đình Chương, ta phân biệt được rõ ràng đời sống ba miền Bắc- Trung-Nam
trên ba dòng sông Hồng, Hương Giang và Cửu Long… Những ca khúc như vậy là một tác phẩm nghệ thuật, không nhiều trong nền âm nhạc Việt Nam sau 1975.
Chị Quỳnh Giao nói những nhạc sĩ lớn thường có trình độ về âm nhạc lẫn bề dầy về văn hóa, cho
nên họ mới có được những tác phẩm để đời.Erreur !
Nom du fichier non spécifié.
Nhiều nhà phê bình âm nhạc quốc tế cho rằng những tác giả lớn của nền âm nhạc cổ điển Tây Phương như Beethoven,
Tchaikovski… đều đem được nguồn nhạc dân gian của dân tộïc mình vào
trong tác phẩm. Theo chị Quỳnh Giao, điều này cũng đúng
với ca khúc Việt Nam. Dân ca là suối nguồn tâm linh của người nhạc sĩ. Để có giá trị lớn ở tầm vóc quốc tế, những ca khúc Việt cần tạo chỗ đứng của riêng mình bằng cách dựa trên nền dân nhạc. Tác giả nào thành công nhất trong lĩnh vực này? Đó chính
là Phạm Duy. Oâng là người đã đem dân ca vào ca
khúc của mình một cách tự nhiên nhất, thậm chí cải biên để cho dân ca trở nên phổ biến hơn trong nền tân nhạc Việt Nam. Những tác phẩm viết về quê hương như Tình Hoài Hương, Tình Ca, Nương Chiều,… đều trở thành bất tử dưạ trên nền dân ca Việt Nam. Còn nhiều nhạc sĩ khác cũng
làm được điều này. Nhạc sĩ Lê Thương sáng tác
không nhiều, nhưng Hòn Vọng Phu của ông xứng đáng là một tác phẩm để đời, mang đậm chất dân ca. Mặc dù Dương Thiệu Tước được nhắc đến nhiều với những ca khúc mang
đậm nét cổ điển Tây Phương, nhưng hai nhạc phẩm rất được yêu thích của ông là Đêm Tàn
Bến Ngự và Tiếng Xưa đều có âm hương dân ca.
Erreur !
Nom du fichier non spécifié.Một đặc điểm nữa của những ca khúc trước 1975 là rất giàu cá tính.
Nhiều nhạc sĩ tạo được màu sắc riêng trong những tác phẩm của mình. Giai điệu và lời của nhạc Trịnh Công Sơn như của một kẻ rong ca, không
lẫn được với nhạc của ai khác. Ca khúc của Lê Uyên Phương đầy những tình cảm mãnh liệt của đôi uyên ương chưa muốn rời xa nhau. Nhạc Văn Phụng là nhạc của những người hạnh phúc, yêu đời… Những ca khúc đầy cá tính này lại còn được trình bày bởi những giọng ca cũng đầy cá tính nữa chứ. Chị Quỳnh Giao có
cùng nhận xét với tôi là những ca sĩ trong nước bây giờ, giọng hát có thể rất điêu luyện, nhưng lại giống nhau quá! Chứ ngày xưa, từ Thái Thanh,
Khánh Ly, Lệ Thu cho đến Thanh Thúy,
Mai Lệ Huyền…, khán thính giả chẳng thể lẫn lộn được. Tại sao vậy? Bởi vì ca sĩ ngày xưa ít có ai được học hát trong những trường dạy thanh nhạc chuyên nghiệp. Họ tự nhiên hình
thành giọng ca của mình. Bản thân chị Quỳnh Giao cũng
chỉ đi học thêm kỹ thuật hát sau khi đã
thành danh. Lại càng ít có chuyện ai bắt chước giọng ai. Người nghe thời ấy tha hồ mà lựa chọn giọng ca cho riêng
mình. Nhạc sĩ cũng lựa chọn ca sĩ cho hợp với ca khúc của mình. Ai hát
nhạc Trịnh hay hơn Khánh Ly? Ai
có thể hát Bà Mẹ Gio Linh thống thiết hơn Thái Thanh? Nhạc Sĩ Vũ Thành thì cho
rằng Quỳnh Giao hát Tiếng Chuông Chiều Thu mới là “tuyệt chiêu”. Đời sống tinh thần thời đó nhờ thế mà phong phú
làm sao!
Tôi hỏi chị nam ca sĩ nào chị thích nhất, chị trả lời: Anh Ngọc. Giọng hát của ông là giọng hát của một “đại trượng phu”. Ông hát nhạc tình một cách từng trải, như người đã đứng trên những niềm vui nỗi buồn trong tình yêu
mà kể lại, độc đáo vô
cùng…Trong khi đó, giọng Sĩ Phú tình cảm hơn, kể chuyện tình nhiều cảm xúc hơn. Vì vậy, Sĩ Phú hát Cô
Láng Giềng là nhất rồi. Thế còn nữ ca sĩ? Chị Quỳnh Giao nói
ngay: Thái Thanh. Cô Thái là một hiện tượng, không ai có
thể so sánh được. Nhưng nhiều khán giả chưa thích giọng hát này khi
còn trẻ. Phải trưởng thành một chút, càng nhiều kinh nghiệm, vui buồn trong đời, nghe giọng cô Thái càng
hay…
Nói chuyện với chị Quỳnh Giao về ca khúc Việt Nam trước 1975 như nói với người tri kỉ, không dứt ra được. Khi chia tay,
chị còn gởi cho tôi vài CD của một số ca khúc Vũ
Thành hòa âm trước 1975. Chị bảo rằng sau này nhiều nhạc sĩ cũng có dàn dựng lại, với kỹ thuật âm thanh cao hơn, nhưng không thể so sánh được với version này.
Chị bảo đó là những món quà vô
giá dành cho khán thính giả Việt Nam. Tôi nghĩ
thầm (dù chị không hề nhắc): chị cũng là một phần trong món quà vô giá đó, đối với thế hệ sau như tôi…
Đòan Hưng
Erreur ! Nom du fichier non spécifié.
Caption 1:
Ca Sĩ Quỳnh Giao trong đêm nhạc Dương Thiệu Tước-Tiếng Xưa Của Chúng Ta
Caption 2:
Dương cầm thủ Quỳnh Giao trên
đài Truyền Hình Việt Nam trước 1975
Một số bài hát của Quỳnh Giao:
Minhhà
Erreur ! Nom du fichier non spécifié.