***Đường
Việt Nam
***NHAC SI NGUYEN DUC
QUANG PLAYLIST
Moi qui than huu thuong
thuc
TRAN NANG PHUNG
|
|
|
|
|
Nhung Nhac
Pham tieu bieu cua Nguyen Duc Quang
|
|
|
|
|
|
|
|
|
©2014 YouTube,
LLC 901 Cherry Ave, San Bruno, CA 94066
|
|
|
Lá Thư Úc Châu
Trang Thơ Nhạc đầu Tuần : 27-10-14
Nguyễn Đức Quang: Đường Việt Nam
Tiếng hát: Nguyễn Đức Quang
Bài Đường Việt Nam, Nguyễn Đức Quang viết
lúc mới 17 tuổi, khi từ Đà Lạt đạp xe đạp xuống Sài Gòn. Bái phục tài của bác
làm sao.
Kính,
NNS
......................................................................................................
(1) Ns Tuấn Khanh: Những cuộc cách mạng từ số phận
Trong buổi sáng ngày 10/10, khi tin tức phát đi cho biết giải
Nobel hoà bình 2014 thuộc về về 2 con người cao quý của Ấn Độ và Pakistan,
chắc hẳn không ít người dân của 2 quốc gia này đã rơi nước mắt sẻ chia vui mừng
cho niềm kiêu hãnh từ khổ đau của họ, cho một niềm hy vọng ấp ủ của họ.
Giải Nobel Hoà Bình năm nay, vinh danh những cái tên vươn lên từ thế giới nhục
nhằn thống khổ. Một bên là chủ nghĩa dã man nhân danh lý tưởng, nơi vùng đất
của Pakistan đang chịu sự hành hạ và cưỡng bức từ Taliban. Và một bên khác là
chủ nghĩa dã man nhân danh phát triển đã đày đoạ và lạm dụng sức lao động trẻ
em ở Ấn Độ. Nobel Hoà Bình 2014 đã hoàn thành trọn vẹn vai trò của mình khi
nhắc nhở rằng giữa những điều tàn tệ mà con người buộc phải chấp nhận trong thế
kỷ 21, vẫn có những niềm hy vọng trỗi dậy, vượt qua cái chết và số phận, toả
sáng như những tượng đài của lương tâm.
Điểm chung của cả hai nhân vật được giải Nobel Hoà Bình 2014 năm nay, ông Kailash
Satyarthi (60 tuổi) và cô Malala Yousafzai (17 tuổi) rằng họ chỉ là những
con người bình thường, cuộc sống bình thường nhưng bị xô đẩy phải trở thành những
người làm cách mạng cho đời mình, cách mạng cho dân tộc mình.
Sinh ra trong một gia đình nghèo khó chứng kiến cha mẹ mình quá cực khổ để kiếm
ra tiền cho con đến trường, ông Kailash lớn lên với giấc mơ đem học vấn và cuộc
đời an lành đến cho mọi đứa trẻ. Câu chuyện đời của ông Kailash trở thành một
huyền thoại sống của đất nước Ấn Độ khi suốt những năm qua, tổ chức Bachpan
Bachao Andolan của ông đã cứu giúp được hàng chục ngàn đứa trẻ. Ở tuổi 26, ông
Kailash Satyarthi từ bỏ công việc kỹ sư điện đầy hứa hẹn của mình và quyết dấn
thân vào con đường cứu giúp những trẻ em ở Ấn Độ đang trở thành nô lệ lao động,
tố cáo sự bóc lột trẻ em. Đó là một hành động hiểm nguy vì ông có thể bị trả
thù và giết chết bất cứ lúc nào. Tuy nhiên nhờ sự ủng hộ của dân chúng mà tổ
chức của Kailash Satyarthi dần dần lớn mạnh. Cho tới hôm nay, ý tưởng về một tổ
chức toàn cầu mang tên Global March Against Child Labor của ông, đã có hơn 2000
thành viên từ 140 quốc gia.
Với Malala Yousafzai, cuộc đời của cô cũng là một bước ngoặt bất ngờ khi cô lên
tiếng về quyền được đi học của phụ nữ, và bị Taliban, nhóm Hồi giáo cực đoan
bắn vào đầu, do cho là cô đã chống lại kinh thánh Hồi Giáo của họ. Sự khác biệt
của Malala là sau khi tỉnh dậy, trên đầu phải vá bằng một miếng thép, thay cho phần
sọ đã vỡ, cô lại tiếp tục lên tiếng và tranh đấu cho hàng triệu trẻ em đạo Hồi
đã chết hoặc đang sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã. Sức mạnh và lẽ phải trên nền
tảng bất bạo động của Malala đã khiến ngay cả giới Taliban cũng phải rúng động.
Chính thủ lãnh Adnan Rasheed ở vùng thung lũng Swat, Pakistan đã gửi thư cho
Malala, thú nhận rằng ông ta cũng bị sốc khi nghe cô bị bắn. Tuy nhiên Adnan
Rasheed cố biện minh rằng Malala bị trừng phạt vì đã thách thức lưỡi gươm đạo
Hồi và tuyên truyền cho phương Tây.
Malala Yousafzai là một trong những người sống sót và rất hiếm hoi quyết lên
tiếng. Trong bài viết của tờ Daily Times, Ấn Độ, nhà báo Omer Zaheer Meer có
viết rằng đã có vô số những cái chết như vậy xảy ra bởi một chế độ độc tài nhân
danh lý tưởng. Sự tồi tệ bạo hành trên con người luôn bị cả thế giới khinh
ghét. Tay sai của chế độ chặn trước cửa nhà, hành hung trên đường đi, tấn công
quyền sinh tồn và học hành hợp pháp của con người. Thậm chí bọn chúng xông vào
nhà hành hung và giết chết. Nếu Malala Yousafzai không lên tiếng, cô chỉ là một
linh hồn tức tưởi như bao cái chết khác. Bất chấp việc bị hãm hại ở quê nhà,
xua đuổi khỏi tổ quốc do chống lại cái ác, cô gái nhỏ Malala đứng lên và trở
thành niềm hy vọng vào ngày mai, của bình an và lương tâm của con người.
Khi Malala Yousafzai nhận giải Nobel Hoà bình ở tuổi 17, rất nhiều người đã
nghĩ đến Josua Wong (Hoàng Chi Phong) của Hồng Kông. Cuộc Cách mạng Dù đầy lãng
mạn và quả cảm của những sinh viên Hồng Kông trong việc đòi quyền bầu cử minh
bạch cũng đã giới thiệu một chàng trai 17 tuổi nhận thức sắc bén với thế giới
sống của mình và không chịu chấp nhận bị lừa phỉnh, bị biến thành một con rối
chính trị cho bất cứ ai. Việc lên tiếng mạnh mẽ của Josua Wong cũng biến cuộc
sống bình thường của anh ta thành một nhà cách mạng. Bị chính quyền khủng bố
bằng cách cho côn đồ giả danh hành hung, sỉ nhục, gửi vòng hoa phúng điếu đến
tận nhà, Josua Wong càng rực sáng để soi rõ bộ mặt nhớp nhúa chính quyền độc
tài.
Giữa một thế giới như đang vào buổi hoàng hôn của văn minh nhân loại, hỗn loạn
khắp nơi bởi những chính quyền nhân danh lý tưởng, độc tài và đạo đức giả, tuổi
trẻ của một thế hệ mới đang làm bừng lên một niềm hy vọng. Những cuộc cách mạng
cần thiết bằng lương tâm và lòng dũng cảm, như những nốt nhạc bất ngờ làm rúng
động, thức tỉnh lòng người giữa một bài trường ca thế gian tối tăm và tuyệt
vọng.
(2) Nhà văn Phạm Thị Hoài: Ngày Về
“Chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh thật khốn nạn. Sau hàng
thế kỉ ngoại thuộc, sau ba chục năm trời nhiễu nhương, nay nước nhà được thanh
bình, dân tộc bắt tay xây dựng đất nước, thì chúng ta lại bỏ xứ ra đi, chúng ta
lại vắng mặt, lại đứng ngoài vòng”. “Không về được, chúng ta tự thấy sống một
đời vô duyên, lãng xẹt. Cần thì chưa chắc tổ quốc đã cần đến mình; chưa chắc
mình sẽ có một đóng góp nào đáng kể. Những kẻ có ý thức cao nhất về mình cũng
không bao giờ dám tự nhận mình là cả một cần thiết cho quốc gia. Tuy nhiên,
nghĩ rằng ở cái xứ nghèo khó nhỏ bé của mình đồng bào đang rầm rập xây dựng mà
mình không được dự phần vào, tự dưng có một cảm tưởng tưng hửng, dần dần ngấm
thành một đau đớn”. “Lòng chúng ta lúc nào cũng tha thiết với quê hương, nhưng
quê hương lại không còn như xưa. Cho nên chúng ta lâm cảnh bẽ bàng”. “Về ư? Dẫu
có về được, ta đâu còn về để tiếp tục đời sống như trước, mà chỉ để tăng cường
hàng ngũ nô lệ. Đành rằng sống chết không cần, nhưng đã sống ta lại cam chịu
sống như vậy sao? Sống để răm rắp vâng lời, để suốt đời ca ngợi lãnh đạo sáng
suốt, để đem thân trâu ngựa củng cố một chế độ độc tài, vun bồi quyền lợi của
một tầng lớp thống trị?”. “Bị kẹt dưới chế độ độc tài là đáng thương; còn như
quyết định tự nguyện nhảy vào cúi đầu phục vụ độc tài lại đáng nguyền rủa. Kẹt
cứng! Đồng bào ta, có lớp bị kẹt lại trong nước, có lớp lại bị kẹt… ở ngoài
nước!”.
Những dòng trên đây là của một nhà văn miền Nam nổi tiếng, trong tùy bút “Ngày
về” in năm 1987 tại California [1]. Hai mươi lăm năm sau những tâm sự khắc
khoải này và ba mươi bảy năm sau khi rời quê hương, một phần nhỏ tác phẩm của
ông đã trở về. Hai đầu sách, Quê hương tôi và Tạp văn được Nhã Nam xuất bản tại
Việt Nam. Chỉ có điều bút danh nổi tiếng của ông, Võ Phiến, được thay bằng
Tràng Thiên, một bút danh ít người biết đến.
Tất nhiên điều đó không bình thường. Nó để lại một dư vị không dễ chịu. Dư vị
của ngụy trang. Nhưng ngụy trang là hành vi gắn liền với toàn bộ sự tồn tại
Việt Nam, với tất cả những mặt khuất và điểm sáng của nó. Ở đây tôi thiên vị
các điểm sáng. Chúng ta thử nhìn câu chuyện Võ Phiến cải tên này qua một sự cố
khác, sự cố Chuyện ở nông trại, tác phẩm lừng danh về những con lợn làm cách
mạng để rồi thiết lập chính cái nguyên trạng mà chúng lật đổ, cũng do Nhã Nam
xuất bản không lâu sau Lolita [2] và Võ Phiến.
*
Trong vụ tác phẩm chống toàn trị cộng sản kinh điển của George Orwell lọt lưới
kiểm duyệt ở Việt Nam, công đầu chắc chắn thuộc về những người làm sách. Tuy
không thể cho Chuyện ở nông trại một sự hiện diện rầm rộ trên truyền thông như
với tác phẩm nổi tiếng và tai tiếng của Nabokov [3], nhưng chỉ riêng việc nó
được cấp phép xuất bản và bản dịch không bị cắt xén đã đủ ngoạn mục. Song trong
trường hợp tác phẩm đặc biệt này, ngoài bản lĩnh và sự dấn thân khéo léo của
những người làm sách, phải có những may mắn khác.
May mắn đáng kê ra đầu tiên là sự dốt nát của bộ máy kiểm duyệt văn hóa tại
Việt Nam. Ai từng làm việc với nó đều vẫn phải sửng sốt dù đã được nhiều lần
báo trước. Trình độ của đại đa số các cán bộ kiểm duyệt có một quyền quyết định
nào đó thường thấp đến mức “hạn chế” còn là một mĩ từ quá rộng lượng để chỉ.
Guồng máy công quyền ở mọi nơi đều là chốn nương thân lí tưởng cho sự tầm
thường, nhưng ở đất nước này guồng máy ấy do một bàn tay vô hình ưa mỉa mai sắp
đặt: hệt như ở các lĩnh vực khác, tiêu chuẩn của người quản lí văn hóa dường
như trước hết phải là không biết gì về văn hóa. Nghe họ mở miệng – đúng ra phải
gọi là mở băng – bạn sẽ chỉ có một cảm giác duy nhất là tuyệt vọng. Tuyệt vọng
khi nghe họ giải thích, chẳng hạn vì sao Kafka là một “trường hợp có vấn đề”,
và càng tuyệt vọng hơn khi một lúc nào đó, khoảng hai thập niên sau, trái đất
vẫn quay dù chúng ta đứng im, lại nghe họ giải thích vì sao trường hợp ấy không
có vấn đề nữa. Trước một thành trì u mê được dán kín tem quyền lực như vậy bạn
không có cơ hội nào hết. Hoặc là bạn phát điên. Hoặc là bạn trở thành một nhà
hiền triết. Ngoài hai khả năng khá gần nhau này, bạn còn có thể tê liệt như một
lựa chọn dễ dàng hơn. Tôi từng liệt toàn thân khi lịch sự ngồi nghe một cán bộ
tuyên huấn cỡ kha khá kể chuyện ông ấy đã liều bảo vệ một tác phẩm đang bị
“đánh” của tôi như thế nào. Tư duy của ông ấy – nếu có thể gọi đó là tư duy –
không hề bị xúc phạm trước một chân lý đại loại như: một nhà văn rửa tay trước
khi viết là một nhà văn trong sạch, nhân đạo và tiến bộ. Còn sự đổi mới tư duy
táo bạo của ông ấy nằm ở nhận thức rằng tôi tuy không rửa tay nhưng vẫn trong
sạch, nhân đạo và tiến bộ, vì tay tôi có bẩn đâu mà phải rửa. Mạng lưới kiểm
duyệt thỉnh thoảng thủng ra một hai lỗ, có khi cho cả một tác phẩm lớn chui
vừa, từ sự dốt nát đó. Thuyết phục kẻ giáo điều thường vô ích. Nhưng một kẻ
giáo điều mù tịt đôi khi lại bất ngờ có một quyết định sáng sủa, vì hắn thậm
chí không đủ hiểu biết để ý thức về quyết định đó của mình.
Những phẩm chất trứ danh khác của bộ máy nói trên là quan liêu, lười nhác và
tắc trách. Tôi đảm bảo rằng nếu thay tên George Orwell bằng Eric Athur Blair,
tên thật của ông, hay H. Lewis Always, một bút danh khác của ông, và đổi 1984
thành Tấm lòng của người Anh Cả; hoặc nếu thay Arthur Koestler bằng Kösztler
Artúr và lấy tên bản gốc tiếng Đức Sonnenfinsternis dịch thành Một vầng nhật
thực thay vì dịch theo những nhan đề đã quá nổi tiếng của bản tiếng Anh
Darkness at Noon hay bản tiếng Pháp Le Zéro et l’Infini, thì cả hai tác phẩm
thuộc hàng chống toàn trị và chống cộng đầu bảng này đều được duyệt êm ru tại
Việt Nam và báo Nhân dân sẽ nhiệt tình quảng cáo. Trong trường hợp Animal Farm,
rất có thể vụ vỡ đê kiểm duyệt xảy ra vì bản thảo được mang một cái tên đồng
quê hiền lành, Chuyện ở nông trại.
*
Vì thế tôi mừng cho một phần Võ Phiến đã chui lọt một trong những cái lỗ tất
yếu ngày càng to ra trong bức tường kiểm duyệt ngày càng kém chất lượng ở Việt
Nam. Một ngày không xa, Đêm giã từ Hà Nội có thể được xuất bản với tên tác giả
là Nguyễn Đăng, một bút danh của Mai Thảo. Nếu phải đổi thành Hà Nội đêm tiễn
biệt, Giọt nước mắt đêm chia tay Hà Thành, Thăng Long đêm biệt li… để Mai Thảo
được trở về cố hương, tôi sẽ lựa chọn sự ngụy trang ấy. Bản thân tôi, không
được thông báo trước, cũng có lần xuất hiện trên một tạp chí ít người đọc ở
trong nước, với cái tên chỉ dùng trong gia đình và một nhóm nhỏ bạn bè.
Trong số những nhà văn miền Nam được mệnh danh là „những tên biệt kích của chủ
nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa-tư tưởng“ thì Duyên Anh ngồi tù 5 năm
rưỡi, mất tại Pháp; Hồ Hữu Tường ngồi tù 5 năm, ra tù thì qua đời tại Việt Nam;
Nguyễn Mạnh Côn chết trong tù; Vũ Khắc Khoan di tản, mất tại Hoa Kỳ; Mai Thảo
vượt biên, mất tại Hoa Kỳ; Doãn Quốc Sỹ ngồi tù 14 năm, hiện sống ở Hoa Kỳ; Nhã
Ca đi tù 2 năm, hiện sống ở Hoa Kỳ; Võ Phiến di tản, hiện sống tại Hoa Kỳ; Nhất
Hạnh đã ra nước ngoài từ 1967; Dương Nghiễm Mậu ngồi tù 2 năm, hiện sống tại
Việt Nam… Năm 2007, 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu vừa được in lại ở
trong nước thì biến mất, rất nhanh, sau khi những pháo đài à la Vũ Hạnh khạc
đạn, loại đạn tồn kho quân khí tư tưởng từ vài chục năm trước, thô sơ cổ lỗ
nhưng vẫn đủ sức sát thương. Nhưng từ khi Võ Phiến alias Tràng Thiên tái xuất,
không thấy ông Vũ Hạnh, người đích thân phụ trách phần viết về Võ Phiến trong
tác phẩm chống „biệt kích văn hóa“ khét tiếng nói trên, đem súng ra lau. Một
dấu hiệu tích cực. Như thể dù phải len lén đi đêm, văn học miền Nam và văn học
hải ngoại cuối cùng cũng gửi được một đại diện đáng kể của mình đến dự cuộc tọa
đàm không chính thức và đã rất trễ giờ về hòa giải dân tộc.
*
Song ngày vui ngắn chẳng tày gang. Bây giờ chúng ta được biết cái giá phải trả
cho tấm vé ngày về của Võ Phiến. Hóa ra việc cải tên chỉ là một động tác rất
phụ. Con trai ông, cũng một nhà văn, bút danh Thu Tứ, người đã „chọn lựa và
biên tập“ hai tác phẩm Quê hương tôi và Tạp văn nói trên, tuyên bố rõ trong bài
„Trường hợp Võ Phiến“: „Chúng tôi cố chọn những tác phẩm vừa giá trị nhất vừa
hoặc không chứa hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị,
khi biên tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa
những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc mà
không gây hại cho nước.“ Trong phần còn lại của bài viết khá dài này, ông Thu
Tứ phê phán toàn bộ hành trình tư tưởng chống cộng của cha mình để đi đến kết
luận về giá trị của Võ Phiến: „Văn nghiệp Võ Phiến vừa tích cực vừa tiêu cực.
Tích cực, đáng lưu truyền, là phần văn học. Tiêu cực, đáng bỏ đi, là phần chính
trị“ cũng như điều kiện để Võ Phiến có thể trở về: „Sai lầm chính trị đã đưa
tác phẩm Võ Phiến ra khỏi lòng dân tộc. Đất nước đã độc lập, thống nhất lâu
rồi. Nay đến lúc, nhân danh bảo tồn những giá trị văn hóa Việt Nam, đưa tác
phẩm Võ Phiến trở về, sau khi lọc bỏ nội dung chính trị.“
Tuyên bố của ông Thu Tứ xuất hiện trên trang Góc nhìn vào tháng 8/2014, song
đến khi được Tuần báo Văn nghệ TP HCM đăng lại cuối tháng 9 và đầu tháng
10/2014 nó mới thực sự được chú ý. Như có thể đoán trước, nó cũng vừa được báo
Nhân dân và báo Tuyên giáo đăng lại. Còn thiếu báo Thanh tra, báo Quân đội và
báo Văn nghệ của Hội Nhà văn là thành trì tư tưởng chính thống điểm danh xong.
Năm ngoái, cái liên minh già nua ấy đã khoe cơ bắp trước tác giả trẻ Nhã
Thuyên. Tương lai thuộc về ai, điều ấy không cần bàn cãi. Nhã Thuyên có rất
nhiều tài năng, rất nhiều lao động cả học thuật và nghệ thuật. Cái liên minh ấy
có những chiếc răng kiểm duyệt cuối cùng. Ông Thu Tứ chỉ góp thêm một chiếc lá
vàng vào mùa thu của các vị trưởng lão.
Tôi không coi việc làm của con trai nhà văn Võ Phiến là hành động „đấu tố cha“
hay „bất hiếu“, như phần lớn phía dư luận đang phẫn nộ, đặc biệt ở hải ngoại.
Máu mủ không phải là tiêu chuẩn để xác định đúng sai thiện ác. Chẳng lẽ chúng
ta phải ca ngợi từ Kim Chính Nhật đến Kim Chính Ân, những người con trung thành
nhất với cha ông? Lịch sử quá nhiều điên đảo và phân cực của Việt Nam tất yếu
chia cắt và chia rẽ, thậm chí con người này đả đảo con người kia ngay trong một
con người. Con cái Phạm Quỳnh bất hiếu chăng, khi tận trung phục vụ cho chế độ
đã giết cha mình? Cù Huy Hà Vũ là một nghịch tử chăng, khi chống lại cái chế độ
mà cha mình là một trong những công thần khai quốc? Chúng ta lấy quyền gì mà
đem những quả tạ đạo đức ra đặt ùm ùm, lúc thì lên cán cân bên này, lúc thì lên
cán cân bên kia, chỉ để lẩy cho được cái kết quả trọng lượng đang cần cho sổ
sách trong những trường hợp như thế? „Trường hợp Thu Tứ“ chỉ là điển hình cho
những xung đột đã và đang giằng xé người Việt trong mọi quan hệ và trên mọi
bình diện. Nạn nhân là tất cả mọi thứ, riêng gì đâu tình phụ tử.
Nếu ông Thu Tứ chỉ đoạn tuyệt với cha mình về quan điểm chính trị, tôi không
chia sẻ, nhưng đó là quyền tự do của ông, như của bất kì ai, mà tôi thấy tranh
luận là vô ích. Song điều khiến tôi sởn gai ốc là ông biến cái quyền tự do tư
tưởng ấy của bản thân thành quyền tự do thanh trừng tư tưởng của người khác, và
người đó là thân phụ ông, nhà văn Võ Phiến, với tất cả lòng tin cậy ruột thịt
đã cấp cho ông tấm giấy ủy quyền. Giấy phép gọt Võ Phiến cho vừa khuôn Thu Tứ.
Không thể trớ trêu hơn. Đội quân đấu tranh tư tưởng của chính quyền Việt Nam có
thể cả cười: nó sẽ tế nhị rút lui, khi gia đình đã đủ là trận tuyến.
Quả thật có những nghệ sĩ lớn đã nhỏ hẳn đi khi làm chiến sĩ tư tưởng và ngược
lại. Người ngưỡng mộ nhà thơ Pablo Neruda ước gì bài tụng ca Stalin của đồng
chí đảng viên cộng sản Pablo Neruda chỉ là một cơn ác mộng lạc đường. Người yêu
thơ Lê Đạt muốn tống khứ 626 dòng Trường ca Bác năm 1970, viết ngày giỗ đầu Hồ
Chủ tịch (Mây trắng đền Hùng/Râu Bác ung dung. Suối Lê Nin/ Núi Mác… Ôi/ Đến cả
hình hài/ Bác/ cũng chẳng mang đi… Bác để lại/ cho ta/bốn biển/ sâu xa/ tình
đồng chí. Bác để lại/ cho ta/ tất cả/ Bác Hồ), sau tất cả những sỉ nhục dành
cho Nhân văn-Giai phẩm. Biết đâu một ngày nào hậu duệ của Tố Hữu sẽ đòi đốt
sạch di sản của cha, một nhà thơ không phải là không có năng khiếu, chỉ giữ lại
bài thơ „Khi con tu hú“, với tên tác giả là Lê Tư Lành, để giữ gìn nghệ thuật
chân chính. Như ông Thu Tứ tin rằng phải cắt phăng khối nọc độc, phần tác phẩm
chứa tư tưởng chống chế độ cộng sản của Võ Phiến, thì mới bảo toàn được giá trị
sự nghiệp văn học của cha mình.
Những quan niệm lang băm trung cổ như thế vẫn sống sót trong thời hiện đại, nơi
văn chương đã lặng lẽ rút lui khỏi ý thức xã hội. Ngày về âm thầm của một tác
giả lớn có dấy lên được một chút dư luận cũng chỉ vì tiếng động của dao kéo
kiểm duyệt. Trong „trường hợp Võ Phiến”, kiểm duyệt tại gia đã đi trước kiểm
duyệt quốc gia. (Source: 2014 pro&contra).
[1] Võ Phiến, Tùy bút, quyển 2, Văn Nghệ, California 1987, tr. 317-318, 323-324
/ [2] Bất chấp sự tranh cãi về dịch thuật, việc Lolita chính thức xuất hiện
trong tiếng Việt là một bước tiến đáng ghi nhận của đời sống văn học tại Việt
Nam. / [3] Cả Nhã Nam lẫn NXB Hội Nhà văn đều không đưa thông tin về cuốn sách
lên mạng. Lời đồn cuốn sách đã bị thu hồi cũng không được phía nào xác nhận hay
bác bỏ.
xxx
(4) Ts Nguyễn Văn Tuấn: Đặt tên 3 loại trí thức
Đọc
trên blog Quê Choa có bài phân tích rất thú vị của Nhà thơ Thạch Quỳ về trí thức
(1). Theo Nhà thơ, ở VN có 3 loại trí thức: loại 1 là những người có tư duy
phản biện, dứt khoát chống lại cái ác và gian dối; loại 2 là những người chỉ
muốn giữ mình, an phận, im lặng trước những cái ác; và loại 3 là những kẻ a dua
theo cường quyền, sẵn sàng phục vụ bộ máy đàn áp và tham gia vào những cái ác.
Cách phân chia này xem ra rất sát với tình hình thực tế. Tôi có thể hình dung
vài người cụ thể cho từng nhóm.
Tôi
quen nhiều bạn bè ở VN, trong và ngoài chính quyền. Trong trò chuyện cá nhân,
ai cũng trăn trở trước hiện tình đất nước, nhưng họ chọn thái độ khác nhau.
Phần đông là im lặng. Một anh bạn là giáo sư ngành nhi đã nghỉ hưu, rất điềm
đạm và có suy nghĩ sâu, từng nói với tôi rằng chế độ nào cũng được, miễn là đem
lại cơm no áo ấm cho dân là ok. Có cái gì đó nguỵ biện và chưa đủ trong cái
nhìn đó, nhưng bạn bè nên không cãi làm gì. Tôi cố nói đồng ý với anh, và hỏi
lại: thế anh thấy ở VN mình đã thật sự có một chế độ như thế chưa. Anh im lặng.
Nhà
thơ lí giải thêm rằng nước nào có nhiều trí thức loại 3 là nước đó “không có
cương thường đạo lý, dùng cường quyền, dùng luật rừng để chém, giết, hiếp lẫn
nhau, đưa xã hội về thời hồng hoang, trung cổ, dã man và hỗn loạn”. Xem ra, một
trong những nước đó chính là Việt Nam ngày nay. Như vậy suy ra, Việt Nam có
nhiều lưu manh giả danh trí thức hay nhiều trí thức loại 3 hơn là trí thức loại
1?
Tôi
liên tưởng đến sự phân bố của con số 24000 tiến sĩ. Dĩ nhiên, ai cũng biết
không phải có bằng tiến sĩ là tự động thành “trí thức”, nhưng thôi thì cứ tạm
cho họ cái nhãn “trí thức” cái đã. Trong số 24000 này, chỉ có khoảng 9000 là
làm việc trong các đại học, phần lớn còn lại có lẽ làm việc trong các cơ quan
của chính quyền và đảng, và một số thì nghỉ hưu. Như vậy có lẽ Nhà thơ Thạch
Quỳ nói đúng: ở VN có nhiều trí thức loại 3.
(5) Thơ: (i) Vũ Khác
Tĩnh: Lục bát 2 câu
Ở QUÊ
Sương rơi lộp độp sau nhà
Nữa khuya thức giấc pha trà uống chơi
HỎI
Sáng đi chiều đến đêm ơi
Chẳng biết đem để cuộc đời ở đâu ?
GA QUÊ
Tàu đêm năm cũ lại về
Bây giờ đứng giữa ga quê bồi hồi
(ii) Hoàng Xuân Sơn: bị
[tự nhiên nghĩ tới Luân Hoán]
bị anh bày hàng hơi lâu
bị tôi úng thuỷ nên cầu gãy ngang
vẫn đời guốc mộc làm sang
lội khắp ngõ hẻm cùng hang ổ tình
anh hay lên ngựa thình lình
tôi vẫn cuốc bộ giữa thinh không này
[ bọn mình cùng dạng thày lay ]
(iii) Xuân Thao: Ngày về
Chiều chiều chim vịt qua sông
Chắt chiu tiếng gọi thương mong người về
Mắt người, xao động bờ tre
Đọt tầng - ô cũng vàng hoe một màu
Mau về, về kịp yêu nhau
Sân khoai bốc khói, hương cau đầy giàn
Chim chuyền, đậu ngọn hoàng lan
Em che dáng huệ, man man cúi chào ...
(iv) Mạc Phương Đình: Đợi nhau
ẫn còn hạt tuyết trên cây
đủ soi giá lạnh tháng ngày tưởng xa
người đi sầu đọng quê nhà
gót chân phiêu bạt chìm qua nửa đời
dặm dài câu hát mình ơi
dẫu đau khó nhọc vịn đời xót thương
lớn khôn cây cải trong vườn
câu ca dao mẹ mở đường ta đi
gió trăng tự buổi phân kỳ
hỏi em còn đọng chút gì với xưa
lối về lạc ngỏ vào mưa
hương thu nào lặng đêm thừa hạt sương
đợi nhau mòn góc nỗi buồn
ngây thơ chìm với sóng cuồng xanh xao
.........................................................................................................
Kính,
NNS
__._,_.___
Posted by: Phung Tran