---------- Forwarded message
---------
From: Anh Nguyen
<
Date: Tue, Oct 20, 2020 at 9:30 PM
Subject: VIDEO XÚC ĐỘNG : SMALL BOAT CỨU TRỢ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM
Men gui sharing toi ACE nhung VIDEOS that xuc dong
* NHÓM CHA NGUYỄN SANG CỨU TRỢ LŨ LỤT MIỀN TRUNG :
CHUYỂN THỨC ĂN & THỨC UỐNG TRÊN XE TRUCK & XE MÁY CÀY
& BOATS ........
CỨU GIÚP ĐỒNG BÀO LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIETNAM
* NHÓM ACE IN VIETNAM GÓI 10,100 BÁNH TRƯNG : CỨU TRỢ ĐỒNG BÀO
MIỀN TRUNG
* GIÁO XỨ TÂN SA CHÂU VN : CỨU TRỢ NẠN LỤT MIỀN TRUNG
3 LINKS BÊN DƯỚI
* MORE & MORE VIDEOS IN YOUTUBE : ACE ĐÓN XEM THẬT CẢM ĐỘNG
.......
---------- Forwarded message
---------
From: Thu Nam
<
Date: Thu, Oct 22, 2020 at 12:22 AM
Subject: Xúc động trước hình ảnh làng quê Việt Nam thân thương qua những bức
tranh vẽ tay.
YOUNG ARTST TRAN NGUYEN: HIS PAINTINGS DEPICT SOME
ACTIVITIES IN VIET NAM RURAL AREAS
Xúc động trước hình ảnh làng quê Việt Nam thân thương qua những bức tranh vẽ tay
TGVN. Gần đây, mạng xã hội đã chia sẻ
tích cực những bức tranh vẽ lại hình ảnh làng quê thân thương với nhiều ký ức
xa xưa của họa sĩ trẻ Trần Nguyên.
Họa sĩ Trần Nguyên cho biết đây là
series với những bức tranh sáng tác về chủ đề Quê nhà và Gia đình. Với anh, “một
góc quê nhỏ nhưng là cả một bầu trời tuổi thơ với rất rất nhiều thương nhớ”.
Có thể thấy, qua nét vẽ sáng tạo, đầy
xúc cảm, những vẻ đẹp xưa cũ, bình yên hiện lên trong trẻo khiến người xem như
lắng đọng về cuộc sống bình yên không chút ồn ào, vội vã... Những bức tranh
phác hoạ gần gũi hình ảnh bình dị của làng quê Việt Nam khiến mỗi chúng ta như
chợt nhớ lại quê hương bình yên ngày thơ ấu.
Dưới đây là những bức tranh dưới nét vẽ
tài ba của họa sĩ Trần Nguyên. (Ảnh: Trần
Nguyên)
---------- Forwarded message ---------
From: mynga b
caodienmytritu <Date: Sun, Oct 18, 2020 at 6:15 AM
Subject: [DaiHocVanKhoaSG] 7 câu thành ngữ tục ngữ quen thuộc nhưng ai cũng
đang dùng sai
Thành
ngữ - tục ngữ vốn là những câu nói quen thuộc, thường được người Việt sử dụng
hàng ngày. Những câu thành ngữ - tục ngữ thường được dùng để nói ẩn ý về một vấn
đề hay con người nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên ngày nay, tiếng Việt của
chúng ta đang dần mất đi sự trong sáng vốn có của nó và những câu ca dao - tục
ngữ đó cũng vậy đã bị "tam sao thất bản" qua thời gian, và lâu dần
chúng ta đã quen miệng dùng mà không hề hay biết. Bạn không tin ư? Hãy cùng xem
qua chùm tranh vui dưới đây để kiểm chứng điều này:
1. “Ướt như chuột lột”
“Ướt
như chuột lột” là một câu thành ngữ mà được nhiều người chúng ta đang sử dụng.
Thiết nghĩ chuột thì làm sao mà “lột” được? Chỉ có “rắn lột” được thôi chứ? Điều
này chứng tỏ, hầu hết mọi người đang đọc sai câu thành ngữ này.
Nguyên
bản của câu thành ngữ này phải là “ướt như chuột lội” câu này có nghĩa chỉ một
người bị ướt lướt thướt, quần áo dính chặt vào người giống hình ảnh của một con
chuột lội từ dưới nước lên.
2. “Dùi đục chấm mắm cáy”
Trong
quá trình giao tiếp hàng ngày, con người ta thường nói “dùi đục chấm mắm cáy”,
thế nhưng đây là một câu nói sai. Từ đúng và nguyên dạng của nó phải là “Bầu dục
chấm mắm cáy”. Trong câu “dùi đục chấm mắm cay” thì “dùi đục” là chỉ một dụng cụ
trong nghề mộc, làm sao có thể ăn được. Còn Bầu dục là món ăn ngon và hiếm. Vậy
mà cái món ăn hiếm ấy lại đem chấm với mắm cáy, một thứ mắm xoàng nhất; có thể
nói là mạt hạng, trong các loại mắm ở vùng biển! Bầu dục, nếu ăn đúng cách là
phải chấm với chanh, hay nước gừng. Còn mắm cáy thì chỉ dùng để ăn với rau muống,
dưa, cà...
3. “Chân nam đá chân chiêu”
Trong
câu thành ngữ này, tác giả đã sử dụng thủ pháp “đối”, trong câu này “chiêu” có
nghĩa là bên trái, "đăm" sẽ được hiểu là bên phải. Còn “nam” lại
không có nghĩa là bên phải.
Vậy
xem ra, nguyên gốc của thành ngữ trên phải là “chân đăm đá chân chiêu” mới
đúng. Mấu chốt ở đây là ở từ “xiêu”, vốn gắn liền với nghiêng ngả, xiêu vẹo. Nó
hoàn toàn phù hợp dùng để chỉ dáng điệu của ai đó hoặc say xỉn, hoặc vội vàng tất
tưởi, vụng về... mà đi đứng không ngay ngắn, vững vàng. Anh chàng say “tít cung
thang” đó đã “góp phần” làm cho dân gian nói lệch câu thành ngữ độc đáo này.
4. “Râu ông nọ cắm cằm bà kia”
Với
câu này, chúng ta thường được sử dụng để ám chỉ sự nhầm lẫn, lắp ghép, lộn xộn,
không chấp nhận được. Trên thực tế, nghĩa câu này không sai những lại khác
nghĩa hoàn toàn với nghĩa gốc.
Nghĩa
gốc sẽ là “Dâu ông nọ chăn tằm bà kia”, ý của câu này để ám chỉ việc lợi dụng
những thứ thuộc về người khác để làm lợi cho riêng bản thân mình.
5. “Ra ngô ra khoai”
Câu
này dùng để phân biệt những thứ gần giống nhau. Nhưng trên thực tế, ngô và
khoai khác nhau hoàn toàn, không khó để chúng ta có thể phân biệt. Chính vì thế,
lâu nay chúng ta đã dùng sai, trên thực tế câu thành ngữ đúng phải là "Làm
cho ra môn ra khoai" có nghĩa là làm cho rành mạch, rõ ràng, không thể để
nhầm lẫn, lẫn lộn được. Sở dĩ có thành ngữ này là vì cây khoai môn và cây khoai
sọ rất dễ bị nhầm lẫn; Khoai môn là khoai có thân và lá dùng làm thức ăn cho lợn,
củ ăn bị ngứa lưỡi, thân hình rất giống khoai sọ; còn cây ngô và cây khoai khác
nhau rõ ràng, chỉ nhìn bằng mắt là đã có thể phân biệt không thể lầm được.
Để
hiểu về câu thành ngữ này, chúng ta cần phải hiểu rằng câu trên được chia thành
hai về đối nhau.
Vắng
chủ nhà như bố mẹ hay người lớn tuổi trong nhà, trẻ con hay người làm thường
nghịch ngợm bày trò phá phách trong nhà.
Gà
mọc đuôi tôm: gà trong thời kỳ "mọc đuôi tôm" là thời kỳ vừa mới lớn,
đuôi mới mọc một nhúm lông, thường phá phách, ăn ít phá nhiều, ỉa lung tung.
Câu
đúng phải là: “Chủ vắng nhà gà vọc niêu tôm” ý ám chỉ rằng không có chủ nhà cai
quản sẽ sinh mấy trò phá phách, hư hỏng.
7. “Cao chạy xa bay”
“Cao
chạy xa bay" và "xa chạy cao bay”, hàm ý chỉ sự biệt tăm, trốn kĩ khó
tìm thấy ngai lập tức, đây là hai câu thành ngữ được sử dụng song song nhau
trong cuộc sống. Tùy vào từng trường hợp hội thoại mà chúng ta có cách sử dụng
cho phù hợp. Thế nhưng có thể thấy, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta lại quen
sử dụng thành ngữ “cao chạy xa bay” hơn là “xa chạy cao bay”, sự kết hợp của
câu này vô cùng ấn tượng và bất bình thường.
---------- Forwarded message ---------
From: T Nguyen
<
Date: Thu, Oct 8, 2020 at 11:54 AM
Subject: Fw: ĐÀ LẠT TRỜI MƯA Phạm Tín An Ninh
ĐÀ
LẠT TRỜI MƯA
Phạm Tín An Ninh
Tôi đến Đà Lạt đúng
vào một ngày mưa. Mưa tầm tã. Ngồi trong nhà Thủy Tạ, nhìn những hạt mưa bay
giăng kín rừng thông, phủ mờ khu phố Hoà Bình , và rơi lả tả xuống mặt hồ Xuân
Hương, tôi mơ hồ như những giọt nước mắt của người góa phụ đã từng một thời
nhan sắc.
Người con gái vừa đến
gặp tôi làm cho tôi mỉm cười với sự so sánh lạ lùng này. Bởi cô ta cũng xinh
đẹp, và dù có nở nụ cười tỏ ra mừng rỡ khi chào tôi, vẫn không giấu được nét
buồn trong đôi mắt. Một nỗi buồn có cái gì xót xa sâu lắng lắm.
Tôi đã đến thành phố
này nhiều lần. Lần cuối cùng vào mùa Giáng Sinh năm 1970, khi đơn vị tôi may
mắn được lệnh về đây phối họp hành quân giữ an ninh cho một khóa Võ Bị làm lễ
ra trường. Bao nhiêu năm trong rừng núi tây nguyên gió lạnh mưa mùa, rồi xuống
bờ biển Phan Thiết với những động cát trơ trọi nóng như lửa đốt, bất ngờ được
về Đà lạt, cho dù chỉ sau một ngày ở thành phố, đơn vị tôi lại được đổ xuống
những rừng thông xa tít, nhưng đám lính tráng bọn tôi vẫn có cái cảm giác như
được đi nghỉ mát. Người ta nói đúng, Đà Lạt dễ thương như những cô gái với gò
má trắng hồng và đôi môi mộng đỏ để ai một lần lên xứ Hoa Đào mà lòng không vấn
vương. Đà lạt cũng là nơi có nhiều huyền thoại về những mối tình đẹp và buồn
của các cô sinh viên với những chàng trai mang alpha đỏ theo nghiệp kiếm cung,
mà tôi đã đọc được trong những bài thơ thật buồn của Lệ Khánh từng vang tiếng
một thời...
Nhưng đó là Đà Lạt của
ngày xưa. Còn hôm nay tôi đến Đà Lạt, với ngổn ngang những nỗi buồn nặng trĩu
trong lòng, và Đà Lạt bây giờ chỉ là một thành phố chết.
Tôi ra tù, trong thời
gian còn bị quản chế, trong túi không có bất cứ một tờ giấy nào. Ngay tấm
“Giấy Ra Trại” cũng đã bị công an xã giữ. Nhờ thằng em cùng đơn vị cũ, có
lò bánh mì ở Tháp Chàm, gởi tôi theo một chiếc xe bộ đội nhận mối chở bánh mì
với tiền thù lao khá, tôi mới có mặt ở đây. Anh tài xế sau khi giao mấy thùng
bánh mì, còn gởi tôi cho cô “chủ nhiệm” quán Thủy Tạ (bây giờ là của nhà nước),
bảo là ông anh họ, để tôi yên lòng không bị hỏi giấy tờ. Quán vắng tanh.Tôi
chọn cái bàn nhỏ xa phía trước và gọi hai tách trà nóng. Tôi cũng chỉ đủ tiền
để trà hai tách trà này.
– Anh chờ em có
lâu không ?
Tôi giật mình khi nghe
cô gái hỏi
–
Không sao, tôi chờ cũng đã khá lâu, nhưng được gặp chị hôm nay là tôi
mừng lắm rồi.
Điều mà ai cũng ái
ngại khi phải mang tin buồn đến cho một người. Đặc biệt người đó lại lại
là một cô con gái đẹp, như cô gái đang ngồi trước mặt tôi đây. Tôi dè dặt :
–
Chắc chị đã biết, như trong lá thư tôi gởi. Tôi là bạn tù của Thống, và
hôm nay muốn gặp chị là để nhắn lại những điều Thống đã nhờ tôi.
–
Em biết là anh Thống đã chết từ năm 1978, nhưng mãi đến năm ngoái , em
mới được phường đưa “Giấy Báo Tin”. Em không biết làm sao báo cho mẹ anh ấy
biết. Bà ở bên Mỹ nhưng em không liên lạc được.
Tôi bất ngờ, nhưng
chợt thấy một chút yên lòng khi nghĩ là cô sẽ không còn đột ngột nhận một tin
buồn từ chính miệng của tôi .
–
Chị đã biết tin buồn về Thống. Như vậy cũng là may, chứ không phải người
tù nào chết mà người nhà cũng được báo tin. Hôm nay, dù hoàn cảnh khó khăn, tôi
cũng phải tìm gặp chị đề nói lại cùng chị những lời trăn trối cuối cùng, và
trao cho chị những kỷ vật mà anh Thống nhờ tôi trao lại chị.
–
Cả tuần nay lòng em rất bồn chồn, mong sớm được gặp anh. Vì em không
biết anh Thống chết ở đâu và mồ mả ra sao. Nhiều lần nằm mơ, em thấy anh Thống,
nhưng chưa bao giờ nghe anh ấy bảo là anh đã chết.
Tôi lấy trong túi ra
để trên bàn một sợi dây đeo một tấm ảnh nhỏ được lồng vào trong cái khung có
hình trái tim đẽo bằng gỗ mun -loại gỗ quý mà chúng tôi thường tìm được ở khu
rừng Việt Bắc- , một chiếc vòng nhỏ làm bằng nhôm xinh xắn, có khắc đậm sáu chữ
Lê Minh Thống & Hà Nhất Anh, và trịnh trọng đứng lên đưa cho cô.
Nhất Anh chính là cô
gái, và Minh Thống là tên một người bạn tù của tôi. Anh đã chết sau gần
hai năm bị chuyển ra ngoài bắc.
Tôi gặp Thống ở trại
Lào Cai, khi hai thằng vừa trong nam mới chuyển ra. Sau hơn một năm cả hai cùng
chuyển về trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn và may mắn được “biên chế” về
cùng một tổ. Thống tốt ngiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, được chuyển sang không
quân, lái phản lực. Trong thời gian học trường Võ Bị, Thống quen Nhất Anh , khi
ấy đang là sinh viên của trường Chính trị Kinh Doanh. Thống chỉ còn bà mẹ già
và cô em gái ở Sài Gòn. Cuộc tình của cô sinh viên Đà Lạt và chàng cựu sinh
viên sĩ quan alpha đỏ kéo dài khá lâu. Hai người đã làm lễ hỏi. Nếu Thống không
sang Mỹ học phi hành và nếu không có ngày 30 tháng tư, thì hai người đã làm đám
cưới .
Những ngày cuối cùng
khi Sài gòn hấp hối, Thống được bạn bè thu xếp hai chỗ trên trực thăng để bay
ra hạm đội Mỹ, nhưng Thống lại dành cho mẹ và cô em gái. Gởi mẹ và em cho thằng
bạn thân, Thống nói dối với mẹ là anh sẽ đi sau.
Thống liều lĩnh tìm
mọi cách chạy về Đà lạt. Chưa kịp đón Nhất Anh, thì Sài Gòn mất. Thống nằm ở
nhà Nhất Anh một tuần rồi ra trình diện “uỷ ban quân quản”, nhưng người ta chỉ
cấp giấy chứng nhận và ghi là phải về Sài Gòn trình diện chính quyền địa
phương ngay. Trở lại Sài Gòn, nhà bị tịch thu, Thống phải ở ké nhà một người bà
con trước khi vào trại cải tạo.
Mấy năm trong tù,
Thống có liên lạc được với Nhất Anh . Nhưng vài tháng mới nhận được một lá thư
ngắn, chỉ hỏi thăm vài câu và khuyên “học tập tốt để sớm được khoan hồng về với
nhân dân”. Bao nhiêu nhung nhớ yêu thương đều phải dấu kín ở trong lòng. Trong
tờ khai lý lịch, Thống ghi Hà Nhất Anh là vợ, cũng là người thân duy nhất, và
địa chỉ của Nhất Anh cũng là nơi anh xin cư trú sau này .
Thống to con đẹp trai,
nhưng dường như tình yêu dễ làm cho Thống yếu lòng. Có những ngày đi chặt nứa
trong rừng, Thống chỉ ngồi khóc và thì thầm gọi tên người yêu. Mấy lần không
mang về đủ nứa, bị phạt cắt bớt một nửa phần ăn vốn đã ít oi, nhưng vẫn không
ngăn được nước mắt của Thống. Dường như khi lòng đang thương nhớ ai, thì cái
đầu không còn điều khiển đôi tay được nữa. Nhiều hôm tôi phải vận động anh em
nhường bớt một chút phần ăn cho Thống, và chia nhau đi lấy thêm nứa cho Thống
có đủ chỉ tiêu để không bị phạt.
Thống còn trẻ, nhưng
cũng như hầu hết sĩ quan xuất thân từ Đà Lạt, dù ở binh chủng nào cũng kiêu
hùng và thăng tiến rất nhanh. Thống nhỏ hơn tôi sáu tuổi, nên xem tôi như người
anh. Có điều gì vui buồn, Thống tìm tôi chia sẻ. Tôi luôn an ủi và khuyến khích
để anh có thêm nghị lực. Thống có gì khó khăn tôi sẳn sàng hết lòng giúp Thống.
Sau này, đội tù của
tôi được phân công đi lấy gỗ về xây dựng hội trường. Họ bắt chúng tôi phải tìm
những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết.
Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như
mỡ, chúng tôi chia từng nhóm hai mươi người vừa kéo vừa bẩy cho từng thân cây
lăn theo những con đường mòn ấy từ trên núi cao lao xuống suối để cho nó trôi
về bên hông trại.
Ăn uống quá thiếu
thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao
động quá nặng nhọc, nên chỉ sau một tuần lấy cây, người nào cũng mệt lả. Một
hôm đang lấy sức bật một thân cây xuống bờ suối, Thống mệt quá nên lảo đảo rồi
ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng
tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm
sâu dưới vực.
Trời nhá nhem tối, cả
hơn bốn mươi thằng tù chia nhau trèo xuống suối đi tìm Thống. Gần nửa giờ sau
chính tổ của tôi tìm được Thống. Anh nằm bất động bên bờ suối. Rất may là ở một
nơi không có đá. Thống thoi thóp thở, nhưng không còn cử động được.
Chúng tôi nhanh chóng
kết một cái bè gỗ, rồi theo dòng suối, cùng nhau đẩy anh về trại. Sau hơn một
tiếng đồng hồ trong trạm xá, Thống tỉnh lại, mở hé mắt nhìn mọi người. Khi nhận
ra tôi, Thống thì thào :
–
Nếu sau này anh còn sống mà về được, nhớ tìm giùm Hà Nhất Anh và nói là
em xin lỗi nàng. Mong nàng hãy sớm lấy chồng và quên em đi.
Tôi nắm chặt đôi vai
lạnh lẽo của Thống :
–
Thống yên chí, tôi sẽ làm bất cứ điều gì mà Thống dặn dò.
Thống cố gắng mở lớn
mắt nhìn tôi như cầu khẩn :
–
Nhờ anh giữ lại cái vòng nhôm trong balô và tấm ảnh em đang mang trong
cổ này, trao lại cho Nhất Anh. Nhớ nói giùm là em xin lỗi cô ta.. xin lỗi cô ta
..
Ngày hôm sau, một buổi
chiều mưa buồn ảm đạm, dưới sự kiềm soát của hai vệ binh, tôi cùng ba người bạn
tù đẩy xác Thống trên một chiếc xe “cải tiến” ra chôn dưới triền núi, bên một
hốc đá . Chúng tôi đào huyệt đúng vào lúc cơn mưa trút xuống. Huyệt đào tới đâu
thì nước ngập theo tới ấy. Tôi năn nỉ xin hai vệ binh cho chúng tôi tìm một nơi
khác cao hơn, và chờ cơn mưa tạnh bớt, nhưng không được đồng ý, mà còn bị quát
tháo, bảo phải “chôn khẩn trương lên mà về ngay”.
Tôi phải ngồi đè trên
xác Thống, lềnh bềnh trên nước, để cho ba người bạn tù kia lấp đất.
Chuyện xảy ra đã hơn
sáu năm rồi. Thời gian có biết bao sự đổi thay. Tôi cũng đã nghe và chứng kiến
không ít những điều phản trắc. Không biết bây giờ Nhất Anh đã có chồng
chưa và trong cảnh đổi đời kéo theo bao cay đắng, liệu trong lòng cô có còn lưu
luyến chút tình xưa.
Đắn đo giây lát rồi
tôi cũng quyết định phải nói hết những gì tôi biết và nhất là những điều mà
Thống, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đã nhờ tôi nếu còn có dịp trở về, hãy
nói lại cùng nàng.
Nghe tôi kể xong mọi
điều, Nhất Anh vẫn ngồi yên bất động. Im lặng một lúc tôi nghe tiếng nàng khóc.
Hai tay nắm chặt các kỷ vật mà tôi vừa trao lại cho nàng. Ngoài trời những cơn
mưa càng vần vũ. Tiếng mưa như thấu hiểu được nỗi niềm, từng đợt trút xuống mái
nhà Thủy Tạ làm át đi tiếng sụt sùi, để cho nàng khóc. Tôi cũng đã không cầm
được nước mắt.
– Em cám ơn
anh, và xin lỗi .. em đã không nén được xúc động.
Tôi cũng kịp lấy lại
bình tĩnh và tìm lời an ủi nàng :
–
Dù sao mọi việc cũng đã qua rồi. Sau cái ngày nước mất nhà tan, biết có
bao cảnh chia lìa tang tóc. Thôi thì tôi cầu mong Nhất Anh sớm nguôi được nỗi
buồn này và có thêm nhiều nghị lực để mà bước tới, như lời trối trăn của Thống.
Nhất Anh còn trẻ mà, còn cả một con đường thật dài trước mặt. Còn tôi, trong
hoàn cảnh này, cũng chẳng biết rồi đời sẽ ra sao. Thôi đành phó cho trời đất
đẩy đưa.
Nhất Anh vẫn ngồi bất
động, không nói lời nào. Nhìn đồng hồ treo trên vách, nhớ tới lời hẹn của anh
tài xế, tôi khẽ gọi nàng :
–
Chị Nhất Anh ! Chỉ còn 15 phút nữa là anh tài xế sẽ quay lại đón tôi.
Sau này nếu chị có cần gì ở tôi, cứ liên lạc với tôi nghe !
Tôi nói cốt chỉ để an
ủi thôi. Chứ tôi thì còn khả năng gì mà giúp nàng. Hơn nữa thời buổi nhiễu
nhương này, dễ gì mà liên lạc được với nhau.
Nhất Anh lấy tay lau
nước mắt, ngước lên nhìn tôi, ngần ngừ vài giây rồi lên tiếng :
–
Nhờ anh vẽ lại và hướng dẫn cho em nơi chôn cất anh Thống. Sau này biết
đâu có dịp may, em sẽ tìm ra thăm anh ấy.
Tôi đứng lên đến quày
trả tiền hai tách trà, và xin một tờ giấy trắng. Tôi ngồi vẽ khá tỷ mỷ và hướng
dẫn cho Nhất Anh con đường đến trại tù, và mộ của Thống nằm bên hốc đá trên
triền núi, phía sau trại tù chừng một cây số. Cũng may là có cái hốc đá lớn duy
nhất, để có thể định hướng được ngôi mộ nằm ở nơi nào giữa vùng rừng núi bao
la.
Nhất Anh đứng dậy mặc
lại áo mưa, xúc động nói lời chia tay, rồi đạp xe đi. Tôi nhìn theo bóng dáng
nhỏ nhắn của nàng lảo đảo xiêu vẹo dưới cơn mưa tầm tã mà ngậm ngùi lo âu cho
số phận của nàng. Tôi nghĩ có lẽ không bao giờ tôi còn có dịp gặp lại Nhất Anh.
Mùa hè năm ấy, vợ
chồng tôi sang Cali thăm mấy cô con gái, nhân tiện chúng tôi đến thăm gia đình
ông anh họ ở thành phố biển San Diego. Giáng Sinh năm 1970, nhân cuộc hành quân
bất ngờ ở Đà Lạt, tôi có ghé thăm anh chị. Khi ấy anh làm ở trung tâm điện lực
Đa Nhim và vợ anh là giáo sư dạy trường Bùi thị Xuân Đà Lạt. Anh chị rời Việt
Nam từ những ngày Sài Gòn hấp hối, nên cũng đã hơn ba mươi năm rồi bây giờ anh
em mới gặp lại nhau. Anh lớn hơn tôi gần mười tuổi, vừa bà con lại vừa là học
trò cưng của ba tôi lúc anh còn học ở trường Pháp Việt, nên anh chị rất quý
chúng tôi, nhất quyết bắt vợ chồng tôi phải ở lại nhà anh chị một tuần để cùng
đi chơi với anh chị. Sau một ngày đi khắp nơi ở San Diego, chúng tôi đi một
vòng sang khu nghỉ mát Cancun bên Mexcico. Đến ngày thứ bảy cuối tuần anh chị
rủ chúng tôi đi tham dự buổi họp mặt của Hội Đồng Hương Đà Lạt, tổ chức tại
Anaheim, gần khu Little Saigon, nhân tiện sau đó anh chị đưa tôi về lại nhà cô
con gái ở Fullerton, cũng rất gần nơi ấy. Gia đình anh được giấy mời với bốn
chỗ ngồi. Vợ chồng đứa con trai lớn không đi, nhường chỗ cho chúng tôi. Bảo là
chú thím ở tận bắc Âu, lâu lắm mới có dịp gặp nhiều đồng hương.
Không ngờ đã rời khỏi
quê hương khá lâu, nhưng những người Đà Lạt còn giữ cái tình đồng hương đậm đà
như thế. Cả hội trường khoảng một ngàn chỗ ngồi chật cứng. Nghe bà chị nói là
họ đã đến từ khắp nơi trên nước Mỹ và Canada, một số từ Úc và Âu châu. Chưa tới
giờ khai mạc, mọi người ngồi nói chuyện líu lo với những tiếng cười nghe như dư
âm của một thời trai trẻ. Những cô gái với đồng phục áo dài trắng trong ban tổ
chức đang chuẩn bị cho bài quốc ca, vẫn còn dáng dấp của Đà Lạt ngày xưa: môi
đỏ má trắng hồng .
Chúng tôi ngồi ở dãy
bàn đầu dành cho quan khách, cùng với gia đình của hai vị cựu giáo sư Bùi Thị
Xuân khác. Trên sân khấu, một cái phông lớn là hình ảnh của khu chợ Hòa Bình và
một mảng của hồ Xuân Hương trong sương mù. Tôi thầm phục người họa sĩ Đà Lạt
nào đã vẽ bức tranh thật sống động. Tôi có cảm giác như mình đang ở một nơi nào
đó trên thành phố thơ mộng một thời này. Ai đó đã nói đúng “người Việt nào ra
đi cũng mang theo quê hương”.
Khi nghe cô MC giới
thiệu thành phần ban tổ chức cuộc họp mặt hôm nay, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy
toàn là phái nữ.. Nhưng đến khi chị trưởng ban tổ chức có đôi lời cùng đồng
hương, tôi mới hiểu Buổi họp mặt này là do các cựu nữ sinh trường Bùi Thị
Xuân đảm trách.
Đang vui tôi bỗng ngậm
ngùi khi một chị trong Ban Tổ Chức lên trình bày về hoàn cảnh thương tâm của
nhà thơ Lệ Khánh. Bây giờ tôi mới biết Lệ Khánh là con gái của phó trưởng ty
cảnh sát Đà Lạt và có cuộc hôn nhân thật buồn với một nhà thơ quân đội, lại là
sĩ quan cấp tá trong ngành Tâm Lý Chiến. Bao nhiêu điều ấy đã đưa nhà thơ nổi
danh một thời của xứ sương mù vào bước đường cùng, phải đi bán hàng rong, bán
từng trái cà trái ớt trong cơn bệnh hoạn, và đứa con trai duy nhất phải đi ở
mướn cho người ta. Ban tổ chức kêu gọi tình thương của những cựu Bùi Thị Xuân,
của những người Đà Lạt cũ. Tôi thầm cám ơn tấm lòng của những người Đà Lạt và
nghĩ đây là một việc rất nên làm.
Đến phần văn nghệ, cô
MC giới thiệu “nhạc phẩm Ai Lên Xứ Hoa Đào với một giọng hát truyền cảm của một
Bùi Thị Xuân ngày trước, đã từng làm điêu đứng bao trái tim học sinh, sinh viên
Đà Lạt”.
Lời giới thiệu đó
không có một chút cường điệu nào. Giọng hát cất lên cao vút làm cả hội trường
im lặng trong khi lòng tôi lắng xuống thẫn thờ. Không phải vì giọng hát truyền
cảm, mà vì người hát ấy chính là Hà Nhất Anh, người con gái có một mối tình
buồn với người bạn tù của tôi ngày trước. Gần hai mươi năm rồi, khuôn mặt có
đôi chút đổi thay, nhưng tôi vẫn nhận ra. Cũng với nhan sắc ấy, nhưng với nụ
cười rạng rỡ, không còn nét buồn nào đọng trên đôi mắt.
Thấy tôi nhìn đăm đăm
lên sân khấu, bà chị đập vai tôi :
– Bộ có quen hay
sao mà nhìn dữ vậy ? Hay lại là một người xưa ?
Tôi quay lại, đúng vào
lúc bài hát vừa chấm dứt. Chờ cho những tràng pháo tay, cùng những tiếng la hét
lắng xuống, tôi ôm vai bà chị :
–
Đúng là có quen, nhưng không phài người xưa của em, mà là hôn thê của
một thằng bạn tù của em, đã chết ngoài Bắc ! Chính em là người đã trao lại cho
cô ấy những kỷ vật của anh ta, khi em vừa mới ra tù.
–
Cô ấy là học trò cũ của chị, để chị gọi cô ấy lại nghe .
Tôi chưa kịp trả lời,
thì bà chị đã vẫy tay gọi một cô trong ban tiếp tân nhờ đi mời “ca sĩ Hà Anh”.
Cô đến nhoẻn miệng
cười, cúi đầu chào anh chị tôi và các thầy cô giáo cùng bàn, rồi khựng lại khi
nhìn vợ chồng tôi, gật đầu nhưng không nói lời nào. Thấy tôi ngồi gần bà
chị, nên cô nhìn bà chị như muốn hỏi chúng tôi là ai. Bà chị cười chỉ vào tôi :
–
Đã gặp nhau rồi mà không còn nhận ra sao?
Cô nhìn tôi, rồi lắc
đầu :
–
Xin lỗi, em không nhớ ra .
Tôi có một chút khó
chịu trong lòng. Hóa ra người đàn bà cũng dễ quên, ngay cả những kỷ niệm đáng
ra phải nhớ trong đời. Giữ lịch sự, tôi nhìn cô :
–
Có phải chị là hôn thê của anh Lê Minh Thống ? – Tôi là người đã trao
cho chị những kỷ vật của anh ấy ở nhà Thủy Tạ, khi tôi vừa mới ra tù. Chị không
còn nhớ ?
Cô ta khựng lại giây
lát, nhưng rồi lắc đầu :
–
Xin lỗi , em không nhớ. Có lẽ anh nhầm em với … ai đó !
Cô chào tất cả mọi
người rồi vội vã quay về phía sau sân khấu.
Tôi nhìn sang ông anh
bà chị nói cho đỡ ngượng:
–
Chắc bây giờ chị ta đang hạnh phúc, nên không muốn nhắc lại chuyện tình
xưa.
Trên sân khấu, chương
trình văn nghệ nối tiếp bằng một hài kịch. Thiên hạ cười ầm ĩ, trong lúc lòng
tôi dửng dưng với một chút bẽ bàng .
Buổi họp mặt chấm dứt,
tôi theo ông anh bà chị bước ra khỏi hội trường. Trong lòng không còn cái háo
hức của lúc mới bước vào đây. Trống rỗng và
một chút bực dọc.
Tôi đang đứng chờ ông
anh bà chị đi lấy xe, thì một bàn tay đâp trên vai tôi . Quay lại, tôi ngạc
nhiên khi nhận ra Hà Nhất Anh. Cô đưa cho tôi mảnh giấy, rồi bảo nhỏ, trước khi
chạy nhanh về phía hội trường :
–
Em xin lỗi, nhưng Anh nhớ phải đến nghe !
Tôi mở vội tấm giấy ra
đọc. Chỉ có số điện thoại và địa chỉ, cùng với một dòng ngắn ngủi: “Suốt ngày
mai, chủ nhật, em sẽ chờ anh ở nhà “
Tôi cảm giác có điều
gì lạ lắm. Và dường như cô ta muốn dấu mọi người . Nghĩ như vậy nên tôi không
nói lại với ông anh bà chị và ngay cả vợ tôi. Ông anh bà chị đưa vợ chồng tôi
về Fullerton, rồi hẹn quay lại sáng thứ bảy tới đưa chúng tôi đi thăm mấy người
đồng hương và cũng là học trò cũ của cha tôi ngày trước.
Tôi nhờ cô con gái lớn
gọi phôn, hẹn đến gặp vào lúc hai giờ chiều chủ nhật. Cô con gái chở vợ chồng
tôi tới trước cổng nhà, sau khi xem đúng địa chỉ, bấm chuông, rồi lái xe đi,
bảo khi nào cần gọi cellphone, sẽ quay lại đón.
Một ngôi nhà nhỏ, khá
xinh, có trồng nhiều loại hoa Đà Lạt, nằm trong khu Fountain Valley yên tĩnh.
Người ra mở cổng là một người đàn ông trẻ, khá bảnh trai với hàng ria mép. Anh
gật đầu chào, nở nụ cười rất tươi bắt tay chúng tôi, giới thiệu tên, nói năng
lễ phép bặt thiệp :
–
Cám ơn anh chị đến thăm. Bà xã em mừng lắm, đợi mong từ sáng tới giờ .
Tôi bước vào sân nhà,
với một ý nghĩ vừa thoáng trong đầu: Được một người chồng như thế, hèn gì cô ta
chóng quên mối tình xưa.
Nhất Anh mang nước ra
mời chúng tôi, vui vẻ, thân tình, khác hẳn với Nhất Anh trong hội trường ngày
hôm qua. Tôi im lặng, bởi không biết phải nói điều gì, ngồi chờ cô ta lên tiếng
trước. Một lúc im lặng, tôi bất ngờ nhìn thấy cô ta khóc. Anh chồng đưa giấy
cho cô lau nước mắt .
–
Mong anh chị tha lỗi cho em. Ngày hôm qua khi gặp anh, nghe anh nhắc tới
anh Thống em xúc động lắm, lại biết chính anh là người đã mang về những kỷ vật
của anh Thống nữa. Nhưng hôm qua đông người quá, em không tiện nói.
Tôi đỡ lời :
–
Tôi hiểu. Làm sao mà chị có thể quên được mối tình đầu, vừa đẹp lại vừa
buồn, nhất là anh Thống đã ở lại và bị chết oan ức cũng vì quá yêu chị. Phải
không ?
Rồi quay sang anh
chồng, tôi lên giọng như một nhà tâm lý học:
–
Ai lại chẳng có mối tình đầu. Và người chồng nào lại không tôn trọng cái
kỷ niệm đẹp đó của vợ mình, phải không anh ?
Anh ta không trả lời,
chỉ cúi xuống với một chút bối rối.
–
Xin lỗi anh. Em không phải là chị Nhất Anh, và cũng không phải là người
yêu của anh Thống!
Tôi bất ngờ, vừa
ngượng ngùng vừa hụt hẩng khi nghe câu nói của người con gái, mà tôi đã chắc nịch
là Hà Nhất Anh. Bây giờ người bối rối lại chính là tôi .
Cô gái hạ giọng :
–
Em là em kế của chị ấy và cũng là đứa em duy nhất. Ba má em chỉ sinh có
hai đứa con gái. Chị em giống nhau lắm, nên có nhiều người cũng lầm.
Tôi nhìn cô ngờ vực :
–
Tôi nhớ ngày hôm qua khi MC giới thiệu chị lên hát, cũng với tên là
Hà- Anh mà ? Tôi nghĩ Hà Nhất Anh, nhưng khi qua Mỹ người ta
thường bỏ đi chữ lót .
–
Đúng ra tên em là Hà Nhị Anh, nhưng bây giờ trong giấy tờ, em mang tên
chị em: Hà Nhất Anh , mà Nhất Anh hay Nhị Anh gì sang đây, như anh nói, cũng
đều gọi Hà Anh như nhau mà anh. .
Đến lúc này thì tôi
không còn hiểu gì nữa. Cô ta đứng lên nhoẻn miệng cười và mời vợ chồng tôi theo
cô lên từng trên, cô bảo :
–
Anh chị cứ theo em lên trên này thì hiểu nhiều hơn .
Ba tấm ảnh để trên bàn
thờ nhỏ. Tôi nhận ra Thống và Nhất Anh, mặc dù lúc chụp những tấm ảnh này hai
người còn rất trẻ. Còn tấm ảnh thứ ba, một người con gái khác, tôi không nhận
ra ai. Tôi chưa kịp hỏi thì cô gái lại sụt sùi:
–
Chị Nhất Anh đã chết khá lâu rồi anh ạ. Vào một ngày mùa đông mưa tầm
tã, chị ấy đạp xe đi đâu không biết, cả nhà chờ cơm tới tối vẫn chưa thấy về.
Từ trước chị không bao giờ đi đâu một mình vào buổi tối. Cả nhà em và mấy người
bạn hàng xóm chia nhau đi tìm. Em đạp xe đi khắp nơi. Trời mưa lớn quá nên em
lạnh cóng. Đường xá vắng tanh không một bóng người. Cuối cùng thì chính em tìm
ra chị ấy. Chị nằm bất động bên bờ hồ Xuân Hương, không xa nhà Thủy Tạ bao xa.
Tôi giật mình hoảng
hốt :
–
Ở gần nhà Thủy Tạ, bên bờ hồ Xuân Hương ? Rồi có tìm được chiếc xe đạp
và cái gì nữa không ?
–
Chiếc xe đạp rớt xuống hồ, ngày hôm sau người ta mới tìm thấy.
–
Và chị đã chết ? Tôi hỏi
–
Không, khi ấy thì chị còn sống, nhưng bất tỉnh và mình mẩy thì lạnh
cóng. Vào bệnh viện, nửa giờ sau chị tỉnh lại, nhưng rất yếu chưa nói được. Khi
thay áo cho chị, em thấy trong túi áo có một sợi dây đeo cổ có tấm ảnh của chị
và một chiếc vòng nhôm có khắc tên chị và tên anh Thống
–
Không có tờ bản đồ vẽ trại tù và nơi mộ anh Thống ?
–
Có chứ ! Chính nhờ tấm bản đồ đó mà vợ chồng em, cách nay ba năm về Việt
Nam, ra tận nơi tìm được, rồi thuê người lấy hài cốt của anh Thống mang về chôn
trên Đà Lạt . Cám ơn anh đã vẽ cái bản đồ khá chi tiết và chính xác.
–
Còn chị Hà Nhất Anh ?
–
Hai tuần sau, chị khá hơn nhiều, nói năng tỉnh táo, bệnh viện cho xuất
viện bảo về nhà điều trị, bồi dưỡng là chị sẽ khỏe thôi. Nhưng không ngờ về nhà
mấy hôm thì lên cơn sốt nặng rồi hôn mê trở lại. Đưa vào bệnh viện thì chị mất.
Người ta bảo là chị bị sưng phổi cấp tính. Mà thời ấy có thuốc men gì đâu mà
chửa. Trong mấy ngày tinh táo, chị thường nhắc tới anh Thống, năn nỉ ba má em
tìm mọi cách đem anh Thống về Đà Lạt, và báo cho mẹ anh ấy biết. Lúc trước bà
thương quí chị lắm, nên chị cũng rất thương và lo lắng cho bà, khi em gái anh
Thống vừa quá trẻ lại vừa yếu đuối. Không ngờ đó lại là những lời
trăn trối của chị.
Tôi thầm nghĩ, chính
vì đi gặp tôi hôm ấy mà Nhất Anh chết. Chắc cô đã xúc động nhiều lắm.
Lòng tôi chùng xuống. Tôi có cái cảm giác đau đớn như vừa có những nhát chém vô
hình nào đó trong lòng mình. Tôi lấy lại bình tĩnh :
–
Như vậy là bây giờ mộ của Thống nằm trên Đà lạt .
–
Dạ . Anh nằm bên cạnh chị Nhất Anh. Vợ chồng em mua lại mảnh đất tư gần
khu rừng Ái Ân. Từ đó anh Thống có thể nhìn thấy Trường Võ Bị của anh lúc xưa
và đỉnh núi Lâm Viên mà anh đã từng chinh phục.
–
Đồi thông hai mộ . Tự dưng tôi buột miệng.
Đến lúc này tôi mới
thấy cô nhoẻn miệng cười :
–
Sau ngày 30 tháng 4/75, ở Đà lạt có khá nhiều “đồi thông hai mộ”. Có dịp
anh chị về Đà Lạt, ghé lại Rừng Ái Ân hỏi thăm, là người ta biết hai ngôi mộ
của anh chị Thống-Anh.
–
Thế rồi, cô có liên lạc được mẹ và em gái của anh Thống ?
Cô không trả lời, mà
lại mời vợ chồng tôi bước sang phòng bên cạnh. Căn phòng rộng, thoáng mát, có
cửa kính lớn nhìn ra công viên phía trước. Một bà cụ tóc bạc trắng, nhưng da dẻ
hồng hào, đôi mắt sáng, ngồi trên chiếc xe lăn. Khi tôi cúi đầu chào bà , cô
gái giới thiệu :
–
Anh này là bạn tù của anh Thống ở ngoài Bắc.
Rồi quay sang tôi :
–
Chắc anh ngạc nhiên lắm, đây chính là mẹ của anh Thống.
Bà cụ ôm lấy tôi, nước
mắt trào ra trên đôi gò má. Bà hỏi tôi về Thống trong những ngày ở tù và vì sao
mà Thống chết. Nhưng tôi chỉ kể vài kỷ niệm về Thống trong những lúc vui
vẻ, và không dám nói cho bà nghe về cái chết thảm thương của Thống. Tôi
nói dối là Thống chết vì bệnh kiết lỵ nặng mà nhà tù không có thuốc. Tôi tưởng
nói dối như vậy cho cụ yên lòng, không ngờ cụ đã khóc ngất lên. Tôi chỉ còn
biết ôm vai bà cụ mà im lặng.
Một lúc sau, bà cụ mới
tỉnh táo và kể lại tai nạn xe hơi đã làm chết cô con gái, em Thống và làm tê
liệt đôi chân của bà. Nhìn sang cô gái, bà cụ thỏ thẻ :
–
Cũng nhờ vợ chồng cháu nó đây mà bác còn sống đến bây giờ.
Nhị Anh nắm tay
bà cụ :
–
Má coi vợ chồng em không khác gì con ruột của má. Em sang đây sau khi em
gái anh Thống chết. Tấm ảnh trên bàn thờ lúc nãy là của cô ấy. Cô nhỏ hơn em
tới sáu tuồi. Lúc ấy má đang làm chủ mấy sạp may, đã lo lắng tiền bạc cho em
sang đây và cho em tiếp tục học xong đại học nữa. Ngôi nhà này là của má cho vợ
chồng em đó chứ.
Vợ chồng tôi chào bà
cụ, chúc bà sức khỏe và hứa bất cứ lúc nào có dịp sang Cali, sẽ ghé lại thăm
bà.
Khi bắt tay từ biệt vợ
chồng Hà Nhị Anh, chợt nhớ tới một điều, nên tôi hỏi cô :
–
Khi nãy tôi có nghe chị nói là bây giờ tên tuổi của chị trong giấy tờ
lại là tên tuổi chị Nhất Anh. Sao vậy ?
Cô gái vẫn còn nắm
chặt bàn tay tôi, kéo tôi ra xa, nhìn quanh rồi hạ giọng :
–
Chính nhờ cái giấy của trại tù báo tin anh Thống chết, trong đó có ghi
tên chị Nhất Anh là vợ, nên em đã thay chị ấy mà sang đây theo diện dành cho vợ
tù nhân cải tạo bị chết trong tù. Em thấy xấu hổ lắm khi phải làm điều gian dối
ấy, tội lớn lắm đối với luật pháp Hoa Kỳ, nhưng đó lại là ước mong của mẹ anh
Thống, và của cả chị Nhất Anh trước khi chết nữa. Em săn sóc cho má bao nhiêu
năm nay, nên má thương em như con gái má. Biết đâu đây là sự sắp xếp nhiệm màu
từ chị Nhất Anh – anh Thống? Hơn nữa nhìn em cũng giống chị em lắm, và
tên em với tên chị ấy cũng như nhau mà. Nhưng anh nhớ phải tuyệt đối giữ hộ cho
em điều bí mật này nghe .
Vâng! Chính vì tôi đã
giữ cho cô cái điều bí mật đó, nên hai cái tên Hà Nhất Anh , Hà Nhị Anh mà các
bạn vừa đọc được trong truyện, đều không phải là tên thật của hai chị em nàng.
BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP
-
https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/
https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM
Chuyện Xứ Xã Nghĩa
rpedn...
5 Kỷ Lục Thế Giới Dành Cho Ẩm Thực Việt Nam
-
WATCH LIVE NOW : NHỮNG CA KHÚC HAY NHẤT CỦA HOÀI AN [14 Ca Khúc] (Super HD
Videos)
https://www.youtube.com/playlist?list=PLNBxCTIUVE70m607mVC5vUdM...