Sầu
Lẻ Bóng 1, 2, 3 Sài Gòn Thứ Bảy Nửa Đêm Về Sáng Người Thợ Săn và Đàn
Chim Nhỏ. Nếu Vắng Anh, Tím Cả Chiều Hoang, Căn Nhà Ngoại Ô, Chuyện
Tình Lan và Điệp 1, 2, Trúc Đào, Tango Dĩ Vãng…
Những ca khúc phổ thơ :
Anh
Cứ Hẹn, Anh biết Em Đi Chẳng Trở Về, Khúc Thụy Du, Anh còn nợ em.
Ngoài
ra ông còn cộng tác với hai nhạc sĩ Lê Dinh và Minh Lỳ với bút hiệu Lê Minh
Bằng để đồng sáng tác nhiều ca khúc hay.
Nguyễn Hiền
Nguyễn Hiền sinh năm 1927 tại Hà Nội, mất ngày 23 tháng 12 năm 2005 ở
California, Hoa Kỳ
Là
một nhạc sĩ nổi tiếng trong nền âm nhạc Việt Nam. Ông là tác giả nhiều ca
khúc giá trị. Nhạc phẩm Người Em Nhỏ (thơ Thiệu Giang là sáng tác đầu tay năm
viết 1945. Ông sử dụng dương cầm, vĩ cầm, phong cầm. 1950, ông là nhạc trưởng
của ban nhạc "Hotel de Paris" tại Hà Nội. Ở Sài Gòn ông làm Chủ sự
phòng Chương trình Đài Phát thanh Sài Gòn; Phụ tá giám đốc Đài Truyền hình
Việt Nam.
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Về
Đây Anh (Nguyễn Hiền & Nhật Bằng), Anh Cho Em Mùa Xuân (phổ từ thơ Kim
Tuấn mùng năm Tết, 1962), Lá Thư Gửi Mẹ (thơ Thái Thủy), Tìm Đâu
(1961, Mái Tóc Dạ Hương (thơ Đinh Hùng, Hai Phương Trời Cách Biệt,
Thanh Bình Ca (lời Thanh Nam), Gửi Một Cánh Chim, Tiếng Hát Học Trò (Nguyễn
Hiền & Minh Kỳ), Tiếng Sáo Diều, Chuyện đêm mưa (lời Hoài Linh), Hoa Bướm
Ngày Xưa (Nguyễn Hiền & (Nguyễn Hiền & Lan Đài)) Ngàn Năm Mây Bay,
Thầm Ước, Về Bến Xưa (Nguyễn Hiền & Thiện Huấn), Một Tiếng Em (thơ
Đinh Hùng)…vvv..
Hoàng Thi Thơ
Là
một người đa tài, ông sinh 16 tháng 7 năm 1929 và mất 23 tháng 9 năm
2001. Những bút hiệu khác: Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích Khê,
Triệu Phong.
- Năm 1947 ông bắt đầu làm báo, viết văn, sau đó viết nhạc, tổ chức đại nhạc
hội, viết nhạc kịch,- điện ảnh, nghiên cứu nghệ thuật múa. Ông là một nhạc sĩ
nỗi tiếng trước năm 1975 đã sáng tác trên 500 ca khúc từ tình ca đến nhạc quê
hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến
nhạc kịch những ca khúc đó hôm nay vẫn được công chúng yêu mến.
Ở
Sài Gòn
- Năm 1955, Hoàng Thi Thơ sáng tác hai bài trường ca đầu tiên mang tên "Triều
Vui Thế Hệ" & "Máu Hồng Sử Xanh". Năm sau, ông
cho ra đời trường ca “Ngày Trọng Đại” và đến năm 1963 là "Tiếng
Trống Diên Hồng". - Năm 1961, ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam
gồm hơn 100 nghệ sĩ tên tuổi và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu cũng như nhiều
thành phố trên thế giới: Vạn Tượng, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok,
Singapore, Sénégal, Paris, London... và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
- Năm 1967, ông thành lập tiếp Đoàn Văn Nghệ Maxim, gồm 70 diễn viên
ca-vũ-nhạc-kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại nhà
hàng Maxim.
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người duy nhất được Bộ Thông tin và Tổng cục Chiến
tranh Chính trị Việt Nam Cộng hòa nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn
nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn…Tháng 4 năm 1975, đoàn văn nghệ của ông
đang lưu diễn ở Nhật Bản thì xảy ra sự kiện lịch sử ngày 30-4-1975.
Những nhạc ohẩm tiêu biểu :
Những
ca khúc hào hùng như :
Quang Trung Đại Phá Quân Thanh" hoặc "Trưng Vương Đại Phá
Quân Đông Hán". Nhiều ca khúc quen thuộc vẫn được người Việt Nam yêu
mến cho đến tận nay.
Nhạc kịch - điện ảnh :
Đạo
diễn sáng tác vở nhạc kịch đầu tiên năm 1963, mang tên "Từ Thức Lạc
Lối Bích Đào".
Năm 1964, vở nhạc kịch thứ nhì "Dương Quý Phi".
Năm 1966 vở "Cô Gái Điên".
Năm 1968 vở "Ả Đào Say".
Năm
1965, Hoàng Thi Thơ trở thành đạo diễn điện ảnh với cuốn phim đầu tiên là "Cô
Gái Điên" quay thành phim từ nhạc kịch cùng tên của ông, do Trung
tâm Điện ảnh Quốc gia sản xuất.
Năm
1969, ông đạo diễn cho phim "Người Cô Đơn" do chính ông sản
xuất. Sau khi ra đến hải ngoại, Hoàng Thi Thơ vẫn tiếp tục làm đạo diễn cho
một số phim video như "Chuyện Tình Buồn", "Tiếng Hát
Trong Trăng", "Người Đẹp Bạch Hoa Thôn" và "Chiêu
Quân Cống Hồ".
Nghiên cứu nghệ thuật múa :
Hoàng
Thi Thơ cũng nghiên cứu các điệu múa. Ông được cho là người tiên phong xây
dựng những điệu vũ vừa hiện đại vừa đậm chất dân tộc. Ông cùng với vũ sư
Trinh Toàn và vũ sư Lưu Hồng đã có nhiều công trình hợp tác nghiên cứu và
sáng tạo các điệu múa dân tộc: Vũ múa trống, Vũ lên đồng, Vũ múa nón, Múa
xòe, Múa Koho...
Phạm
Đình Chương
Sinh
ngày 14 tháng 11 năm 1929 ở Bạch Mai Hà Nội và mất ngày 22
tháng 8 năm1991 tại California, Hoa Kỳ. Ông xuất thân trong gia đình hầu hết
đều là nghệ sĩ. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương lấy tên thật làm bút danh, ngoài ra ông còn là ca sĩ Hoài Bắc
trong ban hợp ca Thăng Long gồm : Phạm Duy, Hoài Bắc, Hoài Trung,Thái Hằng, Thái Thanh.
Nhạc
sĩ Phạm Đình Chương sáng tác hơn 50 ca khúc đa số đều hay. Trường ca Hội Trùng Dương là bản tình ca quê hương
hay và độc đáo. Ca khúc tiêu biểu cho nhạc Phạm Đình Chương là bài Ly Rượu
Mừng, bài hoan ca điệu Valse lời vui tươi giai điệu du dương và cứ
mỗi lần vào dịp Tết người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu gặp nhau đều hân hoan
ca chung khúc này, có lẽ trăm năm sau chung khúc này vẫn còn. Trong sự nghiệp
sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương ông viết những ca khúc theo cảm hứng rung động thật bằng con
tim nên cấu trúc nhạc không cầu kỳ nhưng lại cho đời những ca khúc hay, độc
đáo về những chủ đề Tình phụ, Dang dở, Quê hương, Thân phận, Xóm nghèo, Kiếp
người, như : Thuở Ban Đầu, Xóm Đêm, Đêm Cuối Cung... đầy thiết
tha và ray rứt. Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ
phổ thơ hay nhất, ca khúc phổ thơ:
Nửa Hồn Thương Đau: thơ Thanh Tâm Tuyền, Người Đi Qua Đời Tôi: thơ
Trần Dạ Từ, Khi Cuộc Tình Đã Chết: thơ Du Tử Lê, Màu Kỷ
Niệm: thơ Nguyên Sa, Mộng Dưới Hoa: thơ Dinh Hùng, Đôi Mắt Người
Sơn Tây: thơ Quang Dũng….những ca khúc đó đã vượt thời gian thấm sâu
vào lòng bao thế hệ.
Đã
có nhiều nhà nghiên cứu, học giả viết về nhạc sĩ Phạm Đình Chương, phân tích
về nhạc cũng như những ca từ, nhất là bài Xóm Đêm điệu Boléro của ông. Thời
thập niên 50 những dòng nhạc Boléro, Rumba của ngoại quốc bắt đầu thịnh hành
ở nước ta. Những Ca khúc Bésame Mucho điệu Boléro do Consuelo Velázquez sáng
tác năm 1940 được thu âm bởi Emilio Tuero, và sau đó được rất nhiều nghệ sĩ
khác biểu diễn. Hoặc Ca khúc Quizás, quizás, quizás điệu Boléro
nguyên bằng tiếng Tây Ban Nha do nhạc sĩ người Cuba Osvaldo Farrés sáng tác
vào năm 1947. Lời tiếng Pháp với tựa đề "Qui sait, qui sait, qui
sait" do Jacques Larue chuyển ngữ, ban đầu do ca sĩ Luis Mariano thu âm. Hay
là Ca
khúc Un Historia de Un Amor của Carlos Eleta Almarán bằng
tiếng Ý viết theo điệu Boléro
năm 1955, sau đó ca sĩ Dalida soạn lại
lời Pháp Histoire D' Un Amour 1957. Những ca khúc thể điệu Boléro trên rất được giới mộ điệu âm nhạc thời đó
yêu thích. Riêng Ca khúc Xóm Đêm được viết năm 1961 theo điệu Boléro
Rumba. Lời như một bài thơ, ý diễn tả tình người thắm thiết trong cái xóm nghèo : «Đường về canh thâu, đêm
khuya ngõ sâu như không mầu. Qua chênh vênh có bao mái đầu, hắt hiu vàng ánh
điện câu... »
Về
cấu trúc và giai điệu ca khúc này khác với điệu Rumba khiêu vũ của Cuba và
những thể điệu Boléro sau này. Đây là một thể điệu hòa giữa Rumba mềm mại của
Cuba và Boléro dìu dặt man mát buồn gần gũi với dân ca Việt Nam. Giai điệu có
chút âm hưởng dòng nhạc luyến láy Fado vào thế kỷ 19 của những người Gitan Bồ
Đào Nha lưu lạc qua Nam Mỹ, dung hợp với dòng nhạc của những người nô
lệ da đen từ miền biển Cap Vert Tây Phi xa xôi được du nhập vào lục địa châu
Mỹ cuối thế kỷ 19. Nhịp điệu là nỗi lòng của những thân phận phiêu bạt mang nỗi
buồn u uẩn hoài vọng như tiếng khóc hòa với sóng biển lẫn tiếng đàn giây nên
buồn ray rứt !
Trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương ông viết theo cảm xúc
chân thật của mình mà không theo nhu cầu của thị trường. Ông viết theo giai điệu của con tim để tặng
đời nhưng trong đó có chút nỗi lòng của mình Buồn nhiều hơn Vui như một tiếng thở dài !
Văn
Phụng
Sinh
năn 1930 tại Hà Nội, mất năm 1999.
Nhạc
sĩ Văn Phụng sáng tác hơn 50 ca khúc đều giá trị, những nhạc phẩm đó đã vượt
thời gian vào tâm hồn bao hế hệ. Trong suốt thời gian dài từ năm 1954 đến
năm1975 ông là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất của dòng nhạc tình miền
Nam. Có thể nói nhạc sĩ Văn Phụng là người đưa những dòng nhạc bác học của
Tây Phương vào nền tân nhạc Việt Nam tạo phong cách mới ở thuở ban đầu. Đặc biệt
chất nhạc của Văn Phụng tiết tấu nhanh luôn vui tươi, những bản hùng ca mạnh
mẽ, những giai điệu trữ tình êm dịu nhẹ nhàng. Nhạc của Văn Phụng nói lên
tính lạc quan của dân tộc mặc dù thời kỳ đó quê hương đang xảy ra chiến tranh
khốc liệt. Nhạc của Văn Phụng yêu đời, yêu người, những bản hùng ca mạnh mẽ
thục dục chí làm trai của thanh niên thời chiến lên đường nhưng không hò hét,
sát máu hoặc bị lụy về thân phận con con người trước thảm cảnh ly loạn. Nghe
nhạc Văn Phụng dưa người nghe về một quê hương Việt Nam thuở thanh bình khi
xưa. Mỗi ca khúc là một cảnh sắc trời quê hương trong đó có những tâm hồn
Việt chan hòa nhân ái thân thiện.
Tác
phẩm đầu tay :Ô Mê Ly, Ta Vui Ca Vang
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Ô
Mê Ly, Bức Họa Đồng Quê, Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn, , Xuân Họp Mặt, Mưa, Trăng
Sơn Cước, Suối Tóc, Tiếng Dương Cầm, Xuân miền Nam, Ave Maria, Giã Từ Đêm
Mưa, Nhớ Bến Đà Giang, Tiếng Hát Với Cung Đàn, Các Anh Đi, Bóng Người Đi, Ghé
Bến Sài Gòn, Sương Thu, Thuyền Xưa Bến Cũ, Trăng Sáng Vườn Che, Trăng
Sơn Cước, Vó Câu Muôn Dặm, Tiếng Hát Đ ường Xa, Tiếng Vang Trên Đồi, Tình,
Đàn Trong Đêm Vắng,Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn, Trở Về Huế, Yêu…
Trầm Tử Thiêng
Sinh ngày 1 tháng 10 năam 1937 ở Đại Lộc, Quảng Nam, mất ngày 25 tháng
1 năm 2000 tại Califotnia, Hoa Kỳ. Ông sáng tác trên 50 ca khúc đều
hay, trong đó có Tình quê hương, Tình mẹ và Tình yêu lứa
đôi được ẩn chứa trong Tình quê hương. Dù sinh trưởng nơi miền Trung có dòng
sông Thu Bồn nhưng ông là một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc vàng đậm chất phù
sa Cửu Long giai đoạn 1954 - 1975 tại miền Nam. Năm 1966 Trầm Tử Thiêng
nhập ngũ, ông ở trong ban sáng tác thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng Cục Chiến
Tranh Chính Trị Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thời gian đó ông viết nhưững ca
khúc về lính như: Quân Trường Vang Tiếng Gọi, Đêm Di Hành, Mưa Trên
Poncho.
. Từ năm 1970, ông làm việc trong ngành Phát thanh Học đường cho
đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trầm Tử Thiêng cũng tham gia vào phong trào Du
ca Việt Nam.
Ra hải ngoại ông là cố vấn ban chấp hành Hội Ký giả Việt Nam Hải ngoại 2
nhiêm kỳ 1996 - 2000. Cuối năm 1999, ông cùng các bạn văn nghệ sĩ sáng tác
lập Thư viện Việt Nam tại Little Saigon.
Những nhạc phẩm tiêu biểu :
Bài hương Ca Vô Tận, Trộm Nhìn Nhau,
Con
Quốc Việt Nam,
Chuyện Một
Chiếc Cầu Đã Gãy, Bảy Ngàn
Đêm Góp Lại, Rồi Hai M ươi Năm Sau Năm, Mai
Khi Hòa Bình, Hòa Bình
Ơi! Việt Nam Ơi! Kinh khổ, Đò Dọc, Đêm
Nhớ Về Sài Gòn, Có Tin Vui Giữa Giờ Tuyệt Vọng, Và nhiều tác
phẩm khác...
Trần
ThiệnThanh
Trần Thiện Thanh sinh ngày 12 tháng 6 năm 1942 tại Phan Thiết, Bình
Thuận, và mất ngày 13 tháng 5 năm 2005 tại Hoa Kỳ. Là giáo viên trung học,
nhập ngũ 1965 phục vụ tại Cục Tâm lý chiến thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Ông cũng làm việc tại Ðài
Phát thanh và Truyền hình Quân Ðội, từng là Trưởng ban văn nghệ của đài và
sau năm 1968 còn phụ trách thêm chương trình phóng sự chiến trường.
Ông là một trong những nhạc sĩ của miền Nam nổi tiếng nhất viết về quê hương
qua tâm tình người Lính vào giai đoạn đất nước chiến tranh. Nhạc ông mang
thể điệu Tây Phương pha lẫn chất ngũ cung Việt Nam nên giai điệu hợp với
tâm hồn người Việt. Ca từ kể về chuyện tình yêu lứa đôi thắm thiết của
những cặp trai gái trong thời chiến. Những tình cảm chia ly bịn rịn, luyến
lưu trong mỗi con người dù người lính ở noài chiến trường hay người yêu ở
hậu phương tất cả được bộc lộ, không che dấu nỗi buồn của sự xa cách. Nhạc nói
về người lính nhưng trong chất nhạc và ca từ vui tươi du dương đầy tính
lãng mạn diễn tả người lính hào hoa lãng mạn. Những bài hùng ca hay những
bài ca bi tráng vẫn phơi phới, ca từ không có lời lửa máu, kích động thù
hận. Trái hẳn với những ca khúc cùng thời kỳ ở Miền Bắc thiếu vắng tính
lãng mạn, giai điệu dìu dặt diễn tả tình cảm lứa đôi. Tình cảm lứa đôi của
trai gái miền Bắc trong rthời kỳ chiến tranh bị bỏ quên thay vào
những bản hùng ca mang tính chiến đấu, nên ca từ toàn sắt máu hận thù. Dòng
nhạc đỏ không nằm trong hồn người nên đã chết yểu ! Nếu không có dòng
nhạc vàng Miền Nam năm xưa thì nền âm nhạc Việt thuở đó chỉ toàn là tiếng
gió Trường sơn lẫn tiếng bom đạn, dòng nhạc vàng luôn thắm tình người nên
cứ sống mãi.
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đa tài, ông hoạt động rất nhiều với đài phát thanh
VTVNvà đài truyền hình thời đó. Ông dùng nhiều bút hiệu mà Anh chương là
một trong những bút hiệu khác của ông. Ngoài ra ông còn là ca sĩ với
nghệ danh Nhật Trường.
Những nhạc phẩm tiêu biểu
Chuyến Đi Về Sáng (1963, hợp soạn Mạnh Phát), Đừng hỏi tại sao (1963),
Không Bao Giờ Ngăn Cách (1964), Hàn Mặc Tử (1964), Anh Về Với
Em (1964) Bảy Ngày Đợi Mong (1964), Đồn Vắng Chiều Xuân (1964) Đôi Ngã Đ ôi
Ta (1964), Đời Còn Nhiều Gian Dối (1965), Người Yêu Của Lính (1965,
Anh Chương), Ngày đầu một năm (1967, Anh Chương),Hoa trinh nữ (1967), Biển mặn (1967) Ai Nói
Yêu Em Đêm Nay, (1968), Rừng Lá Thấp (1968)Chị Ba Hàng Xanh (1968)
Dấu Đạn Thù Trên Tường Vôi Trắng (1968), Đám Cưới Đầu Xuân Người
Yêu Tôi Khóc (1969), Một Lần Cuối Mùa ông Của Anh (1970), Mùa Xuân Lá Khô (1970), Trên đỉnh mùa đông
(Trần Thiện Thanh Toàn) Tình Thư Của Lính (1968, Trần Thiện Thanh Tâm), Anh Không Chết Đâu Em
(1971) Người Ở Lại Charlie (1972), Gặp Nhau Làm Ngơ (1974), Chiếc AAo bà ba
Những ca khúc phổ thơ
Chuyện Tình TT.K.H, Chiều Trên Phá Ta, Giang thơ Tô Thùy Yên, Goá Phụ
NgâyTthơ (thơ Hà Huyền Chi), Chuyện Hẹn Hò (1971, Thanh Trân Trần Thị), Hai
sắc hoa Tigôn (Một mùa thu trước),Nỗi Lòng Thanh Trúc (1964) hơ Kim Tuấn…
Năm 1993, ông di cư
sang Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ gia đình ODP.
Nguyễn
Đức Quang
Sinh năm 1944 tại Sơn Tây, mất ngày 27 tháng
3 năm 2011 ở California, Hoa
Kỳ.
Ông theo cha mẹ vào Nam năm 1954, tốt nghiệp trường Đại học Đà Lạt phân
khoa chính trị kinh doanh.
Tác phẩm đầu tay của ông là "Gươm thiêng hào kiệt", viết vào
năm 1961 cho phong trào Hướng đạo. Vào cuối năm 1966 nông là một trong
những thành viên sáng lập Phong trào Du ca Việt Nam với mục đích giáo dục
thế hệ trẻ thông qua các hoạt động văn nghệ và sinh hoạt cộng đồng.
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Chiều Qua Tuy Hòa, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, Về Với Mẹ Cha, Bên Kia
Sông, Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương,v.v... Nhạc sĩ Nguyễn
Đức Quang sáng tác không nhiều nhưng đã để lại dấu ấn trong lòng người Việt
qua ca khúc Việt Nam Quê Hưong Ngạo Nghễ. Có thể nói trong những bài hùng
ca Việt Nam, nhạc phẩm Quê Hương Ngạo Nghễ đã diễn tả được sự bất khuất
kiên cường, khơi gợi lòng yêu nước, tính anh hùng của người Việt Nam quyết
bảo vệ non sông giống nòi chống lại giặc ngoại xâm. Lời ca và nhạc điệu
mạnh như sóng thần, cuồn cuộn như sóng cả, có thể hát cộng đồng trong những
buổi lễ trang trọng trong hội trường, hay những cuộc họp mặt ngoài trời
nhằm ca ngợi hùng khí Việt Nam.
Năm 1979
ông vượt biên sang Hoa Kỳ tỵ nạn và định cư ở Little Saigon, California.
Ông hợp tác với các Nhật báo Người Việt, Viễn Đông rồi
sau đó đứng ra lập tuần báo Chí Linh và Nguyệt san
Phụ nữ Diễn Đ Đàn. Một thời ông cũng đóng góp trên chương trình phát
thanh và truyền hình VOC. Hướng đạo Việt Nam đã tặng ông giải thưởng cao
quý nhất: Bắc Đẩu huân chương.
Đỗ Bình
|
|
|
|
|
|