***NHAC
SI NGUYEN DUC QUANG
***CA NHAC SI DUY KHANH
PLAYLIST
Moi qui than huu thuong
thuc
TRAN NANG PHUNG
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Giao Su Tran Nang Phung duoc su giup do cua nhieu nhan
tai khap noi tren the gioi da thuc hien nhung Video nghe thuat de
gioi thieu nhung nhac pham chon loc ...
|
|
|
Preview by Yahoo
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
©2014 YouTube,
LLC 901 Cherry Ave, San Bruno, CA 94066
|
|
|
|
|
Lá Thư Úc Châu
Trang Thơ Nhạc cuối Tuần : 21-10-14
Nguyễn Đức Quang: Về Với Mẹ Cha
Tiếng hát: Duy Khánh
Kính,
NNS
..............................................................................................................
(1) Thế Thanh: Vì sao
"Đèn cù" chưa bị chiếu cố
Ngay
sau khi tự truyện Đèn cù của Trần Đĩnh ra mắt độc giả, nhiều bài viết nhận định
xuất hiện trên mạng với những phần trích dẫn đi kèm. Tôi đọc và thắc mắc tại
sao một cuốn sách với nội dung “phản động” như thế, cho dù được xuất bản ở nước
ngoài, nhưng bản thân tác giả đang ở trong nước, vậy mà vẫn yên thân, không hề
hấn gì. Ba ngày vừa qua, bỏ thời gian đọc trọn cuốn sách này, thắc mắc của tôi
đã có phần được giải toả.
1.
Trong toàn bộ tự truyện, Trần Đĩnh đã cho thấy rất nhiều lấm lem của một số
phần tử trong Đảng, những sai lầm của các nhân vật chóp bu, hoặc lưu manh côn
đồ hoặc hèn nhát không dám chống lại cái sai, đã gây ra bao oan khuất, đổ máu, chiến
tranh dẫn đến cái chết của mấy triệu mạng người. Kể cả sau khi nội chiến tương
tàn kết thúc, vì Trung Quốc đã đạt được mục đích, thì con đường tiến lên xã hội
chủ nghĩa của Việt Nam vẫn không suy suyển, vẫn là đói rách, nghèo nàn, lạc hậu
mở rộng ra cho cả nước từ Bắc chí Nam.
Đã có bài viết trên mạng nhận định rằng,
những gì về sự kiện lịch sử, thậm chí những cái gọi là “thâm cung bí sử” Trần
Đĩnh cung cấp cho độc giả trong Đèn cù không mới, đã có nhiều người đề cập đến
rồi. Quả thật nhận xét trên cũng có phần đúng. Nhưng cái công lớn của tác giả ở
đây là đã thu gom rất nhiều những dữ kiện, chi tiết, rồi sắp xếp và trình bày
cho độc giả theo cái logic tự truyện riêng của ông. Thêm nữa, khi dám liều công
khai nói ra những sự thật bằng một tác phẩm, tác giả góp phần làm cho nhiều
người bớt sợ hơn, dám bộc lộ ra cái chính kiến của mình. Riêng với Đảng, tác
giả dù sao cũng có công giúp Đảng công khai cho dân chúng một số phần tử lấm
lem (thực tế cũng đã chết), để dụ yên lòng dân. Bằng cách đó, Đảng muốn dân
chúng thấy Đảng xem ra rất có thiện chí chỉnh đốn nội bộ, nghiêm túc “phê và tự
phê”.
2.
Có một điểm mấu chốt, mà theo tôi, Trần Đĩnh chưa chỉ ra được hoặc chưa dám chỉ
ra: đâu là nguyên nhân đưa Đảng đến sai lầm, với hậu quả đẩy dân tộc này vào đường
cùng, khốn khổ suốt 84 năm, mà cho đến tận hôm nay vẫn chưa sao thoát ra được.
Tôi tìm thấy điểm mấu chốt ấy trong truyện ngắn “Cha tôi, tôi và con trai”, Tạ
Duy Anh chỉ ra rất rõ cái nguyên nhân đẻ ra hàng triệu, hàng triệu “Lão Khổ”
chính là cái thứ rất thối ở trong bình, có “cả thịt chuột, thậm chí thịt người
chết đói”. Khốn nạn là cái thứ rất thối ấy, những câu chuyện bịa được đặt tên
là chân lý, chính nghĩa ấy, lại được những tín đồ của nó sùng bái là đỉnh cao
trí tuệ, là lương tâm nhân loại, là kiến trúc thượng tầng để xây dựng thiên
đàng tại thế. Khốn nạn hơn, những tín đồ ấy “đã tin quá lâu vào những câu chuyện
bịa, bởi những kẻ thiếu lương tâm, rồi lại tự bịa chuyện để huyền thoại hoá câu
chuyện bịa đó.” Người ta đổ tội cho cái bình, nhưng thật ra cái bình chỉ có
nhiệm vụ huyền thoại hoá câu chuyện bịa kia, có nhiệm vụ bảo vệ, giữ cái thứ
thối ấy trong bình, phân phát, dụ dỗ, bắt ép mọi người phải ngửi, phải dùng nó.
Ai ngu ngơ không biết hoặc cố tình ăn phải sẽ đau bụng, ỉa chảy.
Những thứ được
tuôn ra sau khi đã thu nạp cái thứ thối, thứ bịa kia là gì? Trần Đĩnh chỉ ra
trong tự truyện của ông, đó là những khẩu hiệu: “Bạo lực cách mạng”, “Chính
quyền ra từ nòng súng”, “Ba dòng thác cách mạng”, v.v.. Thật ra thì bây giờ
người ta cũng đã nhìn nhận các thứ thối loại hai này không dùng được nữa. Một
ví dụ mới đây, người ta cũng đã phải sửa “giải phóng thu đô” thành “tiếp quản
thủ đô”. Trong tác phẩm, tác giả Trần Đĩnh nhắc nhiều đến Bất khuất với phần tự
hào vì đã cố tránh không kích động hận thù, không cổ vũ chiến tranh. Nhưng tác
giả lại không đề cập đến hậu quả khốc hại, đó là người ta lợi dụng nó để xúi
giục, kích động bao lớp thanh niên “bất chấp” một cách ngây thơ, đâm đầu tìm
cái chết vô nghĩa cho mình và cho người khác. Người chỉ đạo viết Bất khuất, rồi
kiểm duyệt, chỉ thị in ấn và phát không nó (210.000 cuốn, trong đó phát riêng
cho quân đội là 160.000 cuốn, tr. 291) lẽ nào lại không có ý đồ gì. Theo tôi,
Bất khuất đã được người ta dùng như một thứ gia vị nêm nếm cho cái chất trong bình
kia, nhằm đánh lừa vị giác, lôi kéo thanh niên xơi cái chất ấy vào, rồi tự
nguyện thí mạng mình để “ba dòng thác cách mạng” thành công.
3.
Giờ nói về cái bình. Những chi tiết tác giả cung cấp trong sách cũng đụng chạm
đến nhiều nhân vật (phần lớn đã chết), kể cả giải huyền thoại cụ Hồ, nhưng tựu chung
vẫn chỉ là vạch ra những sai lầm cá nhân. Còn đối với tập thể cái bình, tác giả
dù bị khai trừ, nhưng xem ra vẫn còn cúi rạp trước cái bình ấy một cách rất
cung kính, thành khẩn. Khi dính vào vụ án xét lại, tác giả chỉ dám dừng lại ở
mức độ tìm cách kêu oan cho mình và cho bạn bè. Trong suốt câu chuyện tả buổi
làm việc với an ninh A25 vào năm 1990 (tr. 547 tt), mọi lý luận, trưng dẫn của
tác giả với an ninh chỉ nhằm một mục đích duy nhất là chứng minh những góp ý
của mình cho Đảng lúc ấy là thành khẩn, là đúng đắn, và Đảng kết tội như vậy là
oan sai. Trong câu chuyện, tác giả cũng đề cập đến nội dung một lá thư cá nhân
thăm hỏi của Lê Đức Thọ gửi cho vợ của một nhân vật bị án xét lại, trong đó, Trưởng
ban chuyên án của 24 năm về trước, phần nào nhìn nhận “nhóm xét lại” bị oan
(tr. 545 tt).
Có lẽ nhờ Đảng Cộng sản cai trị, mà tự điển Việt Nam phong phú
thêm từ “dân oan”! Nếu có dân chủ thực sự, Trần Đĩnh có quyền kiện các cá nhân
và cả cái tập thể kia ra toà vì tội vu khống, bôi nhọ, gây thiệt hại vật chất,
tinh thần cho ông, v.v., chứ không phải là chắp tay vái lạy, khẩn khoản cái tập
thể kia giải oan cho mình. Nếu là một xã hội dân chủ, cái tập thể kia sau khi
thua kiện, phải bồi thường cả danh dự lẫn vật chất cho người ta và những cá
nhân liên hệ phải vào tù vì những sai lầm đã gây ra. Nếu không làm được như
vậy, thì cái tập thể kia đáng phải từ bỏ quyền lực mà nhường việc lãnh đạo đất nước
cho người khác có trí tuệ và lương thiện hơn. Có lẽ Trần Đĩnh cũng chưa dám
nghĩ đến như Tạ Duy Anh rằng để cho đất nước này tiến lên được, thì phải “chôn
chúng [cái bình] xuống gốc khế”.
4.
Đặc điểm của nhóm xét lại, trong đó có Trần Đĩnh, là kịch liệt chống Mao và
những người có tư tưởng ủng hộ Mao trong cái bình made in Vietnam. Tác giả bộc
bạch, ông không đứng về phe Liên Xô để chống Mao, chỉ đơn giản là ông chống
chiến tranh và cổ vũ cho đối thoại để tiến tới thống nhất hai miền trong hoà
bình và không đổ máu. Đèn cù ra đời với một quan điểm ôn hoà vào thời điểm này
xem ra là có lợi cho Trung Quốc, và sẽ được Trung Quốc, cùng những người thân
Trung Quốc chớp thời cơ tận dụng triệt để. Hơn lúc nào hết, Trung Quốc đang cần
những chất xúc tác xoa dịu sự phẫn nộ của người Việt sau vụ giàn khoan HD-981.
Nếu Bất khuất đã đóng trọn vai trò lịch sử của nó theo đúng ý đồ của Mao kích
động chiến tranh, cả thế giới chống Mỹ, thì tôi cũng e ngại rằng Đèn cù cũng
đang, có thể là vượt ra ngoài ý muốn tác giả, đóng một vai trò lịch sử khác
theo rất đúng ý đồ thế hệ thứ ba của Mao – vừa đi cướp của, vừa hô hào chung
sống hoà bình.
5.
Vẫn chưa thực sự đụng chạm, phê phán cái chất bốc mùi chứa ở trong bình, vẫn
còn toàn vẹn cái sự cung kính cái bình, vô tình hay hữu ý góp phần hạ hoả bầu
khí chống Trung, đó là ba lý do, theo tôi, khiến Đèn cù chưa bị chiếu cố và tác
giả của nó vẫn bình an. Cũng như nhiều người, tôi đang nhờ đợi đọc quyển thứ
hai của tác giả, mà như được giới thiệu, là sẽ có nhiều cái mới. Hy vọng rằng,
những điều tôi nói trên đây – cái bình và cái chứa ở trong bình, sẽ được bàn
đến trong tập hai. Mà nếu rộng hơn nữa, là bàn cả lũ chuột chạy quanh cái bình.
Lũ chuột này rất khôn, chỉ khi nào gặp nguy hiểm, chúng mới chạy vào ẩn nấp tạm
trong bình. Còn bình thường, chúng chả dại ở trong bình, vì trong đó rất thối,
tối tăm và ngột ngạt. Chỉ chờ cái sự hù doạ bên ngoài kia xẹp xuống, chúng túa ra
hít thở khí trời và nhăng nhít kiếm ăn ngay. (Theo pro&contra)
(2) Đào Hiếu: Huyền thoại đu dây
Khi người ta nói Việt Nam đang đu dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ
thì sự ví von ấy hàm ý liều lĩnh, bắt cá hai tay, muốn chơi với cả hai bên mà
lại không thật lòng với bên nào. Có nghĩa là cà chớn. Và như thế thì rốt cuộc
chẳng được gì. Sẽ trơ trọi, sẽ đơn độc. Và trò “đu dây” ấy sẽ rất nguy hiểm.
Nhưng trên thực tế Việt Nam có đu dây không?
Người đu dây là một người tự tin, dũng cảm, mạnh mẽ và tài năng. Nhưng đứng
trước Trung Quốc và Mỹ thì chính quyền Việt Nam không hề có các tố chất ấy.
-Không tự tin vì mặc cảm nước nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu. Trước đây Việt Nam huênh
hoang là “đánh thắng ba đế quốc sừng sỏ”.
Nay thì tự ti đến nỗi một ông bộ
trưởng Tàu sang Việt Nam để “kêu gọi đứa con hoang trở về” mà chính quyền cứ im
thin thít.
-Không dũng cảm vì nó giết ngư dân mình mà mình còn sợ phạm huý, chỉ dám gọi nó
là “tàu lạ”. Nó đổ quân chiếm đảo của mình mà mình lại ra lệnh không được kháng
cự để đến nỗi bị nó bắn tan xác 65 chiến sĩ hải quân ở Gạc Ma chỉ trong vòng
mấy phút.
-Không mạnh mẽ vì vũ khí thời chiến tranh để lại thì đã rỉ sét, vũ khí mới mua
thì lèo tèo vài ba cái làm kiểng, và nạn tham nhũng tràn lan, quanh năm lo vơ
vét ăn chặn, cắt xén, rút rỉa ngân sách, còn chí khí đâu mà đánh giặc?
Thử hỏi một kẻ nhu nhược, tự ti mặc cảm và nghèo rớt mồng tơi như Việt Nam thì
nhìn thẳng vào mặt người ta còn không dám, nói chi tới chuyện đu dây. Vì đu dây
là “giỡn mặt tử thần”. Việt Nam có bản lãnh gì mà dám đu dây?
Và điều quan trọng nhất là từ khi ông Hồ tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp đã
khẳng định chỗ đứng của mình là trong vòng tay Trung Quốc rồi. Thắng trận Điện
Biên Phủ cũng là nhờ vũ khí Trung Quốc, thắng Mỹ cũng nhờ vũ khí Trung Quốc.
Cho nên miệng thì nói “không có gì quý hơn độc lập tự do” nhưng trong lòng thì
đã quyết “đổi độc lập tự do đề nắm cho được chính quyền”.
Từ chọn lựa đó mới đẻ ra “Cải Cách Ruộng Đất”. Trong chiến dịch này nhà cầm
quyền Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc đến nỗi vì muốn lấy lòng họ mà phải bắn bỏ
nhiều nhân sĩ yêu nước từng đem cả tài sản mình ra giúp đỡ kháng chiến.
Năm 1990 ông Linh cùng các đồng chí của ông tại hội nghị Thành Đô đã làm một
việc mà bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là: “Bắt đầu một thời kỳ Bắc
thuộc mới rất nguy hiểm”.
Năm 2010 liên tiếp nhiều phái đoàn quân sự cấp cao của Việt Nam sang học tập ở
Trung Quốc, dấn thêm những bước quan trọng vào sự lệ thuộc quân sự.
Rõ ràng là ngay từ những ngày đầu thành lập chế độ, thì Việt Nam đã hành xử như
một tỉnh lẻ của Trung Quốc -trừ một giai đoạn ngắn từ năm 1975 đến 1979 có ý
muốn thoát Trung và lập tức bị TQ “cho một bài học” bằng cuộc chiến tranh biên
giới 1979 – còn lại, từ trước 1945 đến nay, chính quyền Việt Nam đã một
lòng theo Trung Quốc, đã chọn Trung Quốc làm ông chủ, đã nguyện nâng khăn sửa
túi cho Trung Quốc, đã khép nép làm “con nuôi” của các vị cha già dân tộc: Mao
Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và ngày nay là Tập Cận Bình.
Với một “thân phận” như vậy, liệu Việt Nam có tư cách để “đu dây” qua phía Mỹ
không?
*
Chuyện Việt Nam đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ xem ra chỉ là bịa đặt.
Nhưng sao lại có chuyện các vị lãnh đạo cao cấp Việt Nam thăm viếng Hoa Kỳ?
Tôi cho rằng các cuộc thăm viếng ấy cũng nằm trong kịch bản của Trung Quốc.
Việt Nam muốn vào TPP, muốn mua vũ khí của Mỹ. Cả hai việc ấy cũng chỉ có lợi
cho Trung Quốc.
Xưa nay phần lớn các hàng xuất khẩu của “Việt Nam” sang Mỹ chỉ là trên giấy tờ,
chỉ là nói cho oai, thực ra đó là hàng của Trung Quốc sản xuất tại Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu – tiếng là của Việt Nam – thực ra cũng là kim ngạch xuất
khẩu của Trung Quốc.
Việt Nam mua của Nga 2 tàu ngầm Kilo, nhưng Trung Quốc đã mua 20 tàu ngầm kilo
giống như vậy. Liệu 2 chiếc có gãi ngứa được 20 chiếc nếu xảy ra chiến tranh
không? Nếu câu trả lới là KHÔNG thì mua tàu ngầm để làm gì?
Đối với một kẻ nhu nhược, mặc cảm và run rẩy thì có con dao trên tay hay không,
cũng giống hệt nhau. Bởi vì vấn đề là anh có dám đâm hay không. Nếu anh không
dám đâm thì cầm dao để làm gì? Mua dao để làm gì?
*
Vậy thì những dư luận cho rằng:
-Việt Nam đang đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ.
-Mỹ bỏ cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam vì vấn đề nhân quyền
-Việt Nam mua vũ khi của Nga và Mỹ để đương đầu với Trung Quốc… tất cả đều xạo,
vì:
1/ Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Việt Nam luôn khẳng định mối
quan hệ trước sau như một với Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội và nhân dân
Trung Quốc; thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển theo phương châm “16 chữ vàng”
và tinh thần “4 tốt”.
2/ Mớ vũ khí Việt Nam mua được quá ít ỏi (tiền đâu mua nhiều?), đối với Trung
Quốc chỉ là những đồ chơi. Chưa kể việc Trung Quốc đã xây xong một sân bay quân
sự trên đảo Hoàng Sa rồi. Cái sân bay ấy còn lợi hại hơn cả một hàng không mẫu
hạm vì nó “đậu” sát bờ biển Việt Nam (chỉ cách Đà Nẵng hơn 300 km) và không thể
bị đánh chìm!
3/ Mỹ cũng rất muốn bán vũ khí cho Việt Nam (chế tạo vũ khí là một trong những
nền công nghiệp quan trọng của Mỹ). Mỹ đưa vấn đề “nhân quyền” ra để mặc cả với
Việt Nam cũng chỉ là màu mè, ra vẻ ta đây quan tâm tới nhân quyền, còn phía Việt
Nam thì giữ thể diện cho Mỹ bằng cách thả tượng trưng vài người nổi tiếng. Trên
thực tế nếu Việt Nam đếch thả người nào thì Mỹ vẫn bán vũ khí như thường (ngu
sao không bán?)
4/ Việt Nam mua vũ khí của Nga, của Mỹ nhưng không xài (vì có dám đánh nhau với
Trung Quốc đâu mà xài?). Vậy mua để làm gì?. Câu hỏi này làm người ta nghĩ ngay
tới vụ Vinashin mua cái “ụ nổi”. Và vô số vụ “mua về đắp mền” khác nữa.
*
Chúng ta đang sống trong một thời đại XẠO HẾT CHỖ NÓI. Nga cũng xạo, Mỹ cũng
xạo, Trung Cộng cũng xạo và Việt Nam cũng… rứa. “Mười Sáu Chữ Vàng”, “Bốn Tốt”
cũng xạo, Mỹ “quan ngại sâu sắc” cũng xạo, Mỹ “bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí” cũng
xạo, mà “đu dây” cũng xạo nốt. (Source: Blog Lề Trái).
***
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Đi Trung Nam Hải cầu hòa, liệu Bộ trưởng Phùng Quang Thanh có ngăn
được giặc Tàu?
Từ xưa đến nay, chưa bao giờ các thế hệ cầm quyền Trung Quốc từ bỏ
mưu đồ thôn tính nước ta.
Năm 1974, họ đánh chiếm Hoàng Sa của ta. Năm 1979, họ xua quân xâm lăng, giết
hại đồng bào và tàn phá 6 tỉnh biên giới của ta. Năm 1988, họ đánh chiếm bãi đá
Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa của chúng ta, giết hại 64 cán bộ chiến sĩ của
ta. Trong đàm phán biên giới, họ ép và lấn ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc,
mấy trăm mét từ ải Nam Quan xuống đến xã Tân Thanh và nhiều nơi nữa dọc biên
giới, ta mất đất bằng một tỉnh Thái Bình.
Trên biển, Trung Quốc lập huyện Tam Sa bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của ta,
bắt tàu cá, tịch thu tài sản của ngư dân, bắn giết ngư dân ta, đưa giàn khoan
981HD vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của ta với hàng trăm tàu bảo
vệ phun vòi rồng, đâm hỏng tàu chấp pháp, tàu kiểm ngư, đâm chìm tàu cá của ngư
dân ta...Từ khi họ nêu ra phương châm "16 chữ + 4 tốt", chỉ có lãnh
đạo phía Việt Nam thực hiện, Trung Quốc không những không hề thực hiện, trái
lại còn làm những việc lấn chiếm, bắn giết, đe dọa... Phải gọi họ là kẻ cướp,
kẻ thù. Thế mà,ông Phùng Quang Thanh dẫn các tướng sang thăm Trung Quốc nhằm
"củng cố tình hữu nghị". Chắc hẳn đoàn Bộ trưởng được đón tiếp
trọng thị, khoản đãi hậu tình, có quà cáp đáng giá và được nghe những lời đường
mật giả dối.
Trong khi đó, Trung Quốc sắp xây xong sân bay và đường băng trên đảo Phú Lâm,
đương gấp rút hoàn thiện căn cứ quân sự có đường băng trên nhóm bãi đá Gạc Ma
mà họ xây dựng thành các đảo nhân tạo không ngoài mục đích uy hiếp và chuẩn bị,
chờ thời cơ chiếm nốt quần đảo Trường Sa của ta và bá chiếm biển Đông. Giới cầm
quyền Trung Quốc luôn tuyên bố "Lập trường đối với Nam Hải (biển Đông)
quyết không thay đổi".
Liệu chuyến thăm của đoàn Bộ trưởng Phùng Quang Thanh sang cầu hòa có ngăn được
âm mưu của họ không?!
Sinh ra Bộ Quốc phòng là để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải
quốc gia. Lẽ ra ông Bộ trưởng phải phân biệt rõ bạn, thù, ra sức tăng cường lực
lượng quốc phòng về mọi mặt, luôn sẵn sàng chuẩn bị đối phó với tình hình xấu
nhất theo tinh thần "lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn" như dân
tộc ta đã thực hiện. Đằng này, khi Trung Quốc đặt gian khoan xâm phạm thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế của ta thì ông lại phát biểu "Quan hệ Việt -
Trung vẫn phát triển tốt", không có ý kiến gì đối với việc Trung Quốc xây
dựng công trình trên đảo Phú Lâm và trên cụm Gạc Ma, không quan tâm đến những
sự kiện Trung Quốc đã đứng chân và nắm được nhiều điểm xung yếu về quân sự trên
đất liền, từ rừng biên giới đến ven biển và các hải cảng, cũng như hàng vạn
người Trung Quốc rải khắp nơi trong nước ta, kể cả cư trú trái phép. Có một ông
Bộ trưởng Quốc phòng như thế thì việc mất biển, đảo và mất nước là khó tránh
khỏi.(Source: BVN).
(3) Ts Alan Phan: Chuyện người và chuột
Một bạn BCA từ Pháp gởi 1 bài báo về chuyện chánh phủ Đan Mạch
ngừng ba dự án viện trợ ODA cho Việt Nam vì nghi ngờ tham nhũng và lãng phí.
Đây là chuyện bình thường nếu bạn sống ở Việt Nam một thời gian, thuộc loại tin
ít người để ý. Tin một cô người mẫu gì đó bán dâm chắc chắn được theo dõi gấp
trăm lần. Vả lại các dự án này thuộc loại tép riu nếu so với các xì căng đan
khác như Vinashin, Vinalines, Vina…bananas…Các cách tham nhũng như thổi giá máy
móc, dụng cụ, hợp đồng thuê ngoài, nhân viên ma, kế toán bịp bợm, gởi con đi du
học bằng tiền viện trợ… thì quả là cũ như trái đất, ai mà chẳng biết.
Tuy nhiên, kỳ này, công ty kiểm toán KPMG hạch toán lại tất cả nhũng lạm rất
chi tiết, bài bản và cho thấy tổng số tiền …cuốn theo chiều gió lên đến 23%
(lập lại: hai mươi ba phần trăm).
Xứ nào cũng có tham nhũng. Tôi có đọc một tư liệu từ Nhật Bản cho thấy tiền bôi
trơn phỏng định cho các dự án đầu tư tại nước ngoài dao động từ 1.2% tại
Singapore đến 18% tại Lào. Tỷ lệ cho Việt Nam là 14% và tôi đã suýt xa vì quá
cao (với các bạn tò mò, Trung Quốc là 8%, Thái Lan là 9% và Indonesia là 12%).
Bây giờ, con số 23% là một kỷ lục có thể dành cho Guinness Book.
Tôi nhớ một Quỹ Đầu Tư của Đan Mạch cũng đã bơm 10.6 triệu USD vào công ty Thủy
Sản Bình An 4 tháng trước khi bong bong nợ nổ tung. Có lẽ con người Đan Mạch
quen với cái lạnh băng giá nhưng tinh khiết của một môi trường không có côn
trùng sâu bọ; nên khi qua đây, họ bị đau đầu với cái nắng chói chang của miền
nhiệt đới?
Nhưng dù Đan Mạch hay nơi đâu, cái phí 23% là lý do chính tại sao mọi hàng hóa
Việt đã có một giá thành cao nghịch lý với mọi định luật thị trường về sản
xuất, dù nhân công và thuế thu nhập rất rẻ. Cái giá mọi công dân phải trả còn
cao hơn giá trị kinh tế của con số 23%; nó còn là một soi mòn về niềm tin của
các nhà đầu tư ngoại, các doanh nhân trong nước, các công nhân trên mọi công
trường và các bạn sinh viên vừa bắt đầu khởi nghiệp.
Người Mỹ có câu ngạn ngữ,” Khi các bệnh nhân tâm thần cai quản nhà thương
điên…” (when the inmates took over the asylum)…Thực ra, nó ít nguy hiểm hơn là
khi lũ chuột nắm quyền kiểm soát kho gạo…
(4) Nguyễn Quang Lập: Học văn để làm chi
hè?
O
Kim Tiến xinh đẹp, Bộ trưởng Y tế xinh đẹp của chúng ta nói rằng “Tôi phải nói
thật là môn văn rất cần. Trong quá trình làm việc, nhiều người viết báo cáo mà
ngữ pháp sai rất nhiều, chưa nói đến lỗi chính tả. Viết sai thì tư duy cũng
sai, nói cũng không tốt được (...). Môn văn rất cần cho cán bộ ngành y, giúp
việc nói năng lưu loát, diễn đạt văn bản rõ ràng, đúng ngữ pháp”.
Từ
câu nói của người đẹp Kim Tiến dân tình bàn loạn cả lên. Tui để ý xem có nhà
văn nào lên tiếng không. Không. Hoàn toàn không. Bởi vì đó không phải việc của
nhà văn. Đó cũng không phải vấn đề mà nhà văn quan tâm. Hi hi... thiệt rứa đó.
Bảo
rằng học văn để nói năng lưu loát, xin thưa trật lấc! Muốn nói năng lưu loát
thì đi học môn hùng biện chứ không phải đi học văn. Tất cả nhà văn hàng đầu
nước ta đều nói năng không hề lưu loát chút nào. Kim Tiến đã nghe nhà văn
Nguyễn Minh Châu nói chuyện lần nào chưa? Nếu chưa bây giờ thử mời nhà văn Bảo
Ninh đến Bộ y tế nói chuyện. Trình nói chuyện của Bảo Ninh cũng xêm xêm Nguyễn
Minh Châu, họ đều thuộc trường phái ngậm hột thị. Ngậm hột thị hãy còn
khá, có nhà văn không hề biết nói, điển hình là nhà thơ Tế Hanh. Rời cây bút ra
là ông không sao diễn đạt được điều ông nghĩ cho mọi người hiểu.
Bật
mí cho người đẹp Kim Tiến nhé: Ở đâu không biết chứ ở nước ta phàm ông nào
trước đám đông nói năng lưu loát, trơn tuột như cháo chảy, thì hoặc ông đó
không phải nhà văn hoặc là nhà văn dốt, tức nhà văn bất tài. Chắc chắn 100%.
Bảo
rằng học văn để viết lách gãy gọn, đúng ngữ pháp, đúng chính tả, xin thưa cũng
trật lấc nốt. Muốn giỏi mấy món đó thì lo đi học môn soạn thảo văn bản. Hơn 90%
phần trăm nhà văn nước ta viết sai chính tả, trong đó có tui. Nhà thơ Đỗ Trung
Quân chẳng những viết sai chính tả mà sai luôn cả lỗi đánh máy, đọc bài ông
viết lắm khi muốn nổi khùng. Thế nhưng ông là nhà thơ được yêu mến hàng đầu Tổ
quốc mình đấy O Kim Tiến ạ. Bạn đọc đọc thơ ông chứ chẳng ai đọc chính tả của
ông bao giờ, không tin O Kim Tiến hỏi họ mà xem.
Một
nhà thơ hàng đầu đất nước khác đó là nhà thơ Phạm Tiến Duật, ông còn không viết
nổi biên bản một cuộc họp nửa tiếng của ban biên tập báo Văn nghệ. Một hôm ông
Hữu Thỉnh giao cho Phạm Tiến Duật làm biên bản. Phạm Tiến Duật mừng lắm, vì nghĩ
mình được coi trọng, ra sức viết một biên bản 4 trang A4. Họp xong,Phạm
Tiến Duật đọc biên bản. Mọi ngơ ngác không ai hiểu sao cả. Chỉ riêng Hữu Thỉnh
là xuýt xóa khen hay. Xuýt xoa khen hay xong Hữu Thỉnh hỏi Phạm Tiến Duật, nói
này ông Duật, cái này là biên bản hay thơ hậu hiện đại?
O
Kim Tiến ơi! Môn văn chẳng cần để làm chi hết, nói chung học sinh nước ta không
cần phải học văn. Ông Bảo Ninh có lần tâm sự với tui, nói tao nói thật, sở dĩ
bây giờ tao thành nhà văn vì ngày xưa tao chán học văn khủng khiếp. Đúng vậy. Ở
một xã hội lấy đạo đức giả làm căn bản thì văn chương (thứ thiệt) là thứ nguy
hiểm càng tránh xa càng tốt. Ở một xã hội mà bọn đạo đức giả luôn lấy món nhân
văn ( giả cầy) làm ngọn cờ gương mẫu uy tín thì càng học văn càng nguy
hiểm, càng học văn càng giết chết văn, giết chết luôn tính người trong mỗi
chúng ta. Điều đó giải thích vì sao càng học văn thì tình trạng cướp giết hiếp
càng dâng cao, y đức ngành của O càng suy sụp. Rứa đó O Tiến nờ. (Source:
quechoa)
(5) Thơ Hoàng Lộc
Hoàng Lộc: Dân Quảng Nam.
Từ năm 1960 đến nay, có thơ trên các báo Sài Gòn và hải ngoại.
Trung Tâm Văn Bút Việt Nam trao tặng giải thi ca năm 1970.
* Thơ đã in :
- Thơ Học Trò (1965)
- Trái Tim Còn Lại (1971)
- Qua Mấy Trời Sương Mưa (1999)
- Cho Dẫu Phù Vân (2012)
* Sắp in: Ngăn ngắn tình si
(i) về kiếp khác
anh đi tới nhà thờ
Chúa dang tay chắn lối
anh đi qua cửa chùa
Phật mỉm cười, không hỏi
biết mình chẳng đủ phước
vào được Cõi Êm Đềm
biết mình loài háo sắc
chỉ có thể tìm em
em thì ngồi trong bếp
mải mê việc nhà ai
(mối tình kia chết tiệt
mà làm phiền nhau hoài)
anh cứ thằng ngỗ ngược
Chúa Phật đều không dung
mai mốt về kiếp khác
biết làm người nữa không!
(và có được em không?) (9-2014)
(ii) bạn rủ đi tu
nản lòng gái sớm rượu trưa
bạn bè tôi bỏ đi tu cả rồi
hình như chỉ có mình tôi
và em, là trả nợ đời chưa xong?
đại thừa - xe bạn vừa dong
vừa lo, nên rủ tôi cùng đi tu.
ngó kia mấy cõi ta bà
cõi mô cũng giống cõi mô –
hết hồn
biết rằng tu tập là khôn
mà không tu cũng không buồn được thêm
mai chiều
bè bạn bay lên
còn tôi
tụt xuống cùng em
mịt mờ... (8-2014)
******
Phạm Đạt Nhân: Chữ Tình
trong Thơ Hoàng Lộc
Chữ
tình hay cái tình trong thơ Hoàng Lộc không tuyền là tình yêu đôi lứa . Chữ tình
trong thơ Hoàng Lộc có cả tình quê , tình bạn và cả tình đời dâu bể .Mới xem ra
chữ tình trong thơ anh là tình mơ tình mộng, tình sầu tình hận ...vì những cuộc
tình dang dở, những cuộc tình mong manh chập chờn thoáng chốc. Đành là vậy,
nhưng trong những cuộc tình lỡ, tình hờ, tình muộn ...vẫn cứ đan xen ẩn chứa
những băn khoăn, thao thức, những khắc khoải vời vợi bao nỗi nhớ quê nhà, nhớ
bạn bè và cả nỗi đau đời trong cuộc nhân sinh .
Hoàng Lộc đích thị là kẻ đa
tình : " Bồ tát tâm rất Phật, như ta đây đa tình "
Ngay
trong tình yêu đôi lứa , Hoàng Lộc cũng khác với những nhà thơ chuyên viết thơ
tình như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Bính ,.... Điểm khác
biệt dễ thấy nhất là tư thái điềm đạm, bao dung , độ lượng của Hoàng Lộc . Tư thái
nầy xuất phát từ một tình yêu vô cầu vô nhiểm .Yêu như một cái cớ để làm thơ,
để thủ thỉ, để tâm sự ...chứ không phải để chiếm hữu người tình . Thi sĩ thường
vẫn vậy, yêu rất nhiều mà vợ thì chỉ một mà thôi; khác với bọn trọc phú vợ thì
nhiều mà chẳng biết yêu cho ra hồn .Hoàng Lộc tự cho mình là con bướm già đời
vẫn thức :
Năm mươi năm đời ta hoài con bướm thức / Hoa vàng nhà em - đêm khờ trở
giấc
Thì ra có thiệt mùa xuân / Bướm đã già rồi, tội lắm tình
nhân!
Hoàng Lộc là con bướm lượn lờ đôi cánh chiêm ngưỡng trên những khóm hoa. Ngay
những năm đầu của bậc trung học, Hoàng Lộc đã bối rối yêu và bối rối làm thơ:
thuở mới lớn anh rình cô bạn học / tháng ngày ai thơm áo trắng không ngờ
khi cô thả tóc thề ngang cửa lớp / là khi lòng cậu bé rối
câu thơ
Rồi sau những cuộc tình lỡ muộn, Hoàng Lộc vẫn lẻo đẻo đi theo con đường thơ
"quá chừng cô độc":
không thể theo nhau thôi đừng ngó lại / cô đi theo chồng,
anh đi theo thơ
Già nửa cuộc đời đi theo thơ:
Hơn bốn mươi năm anh cứ dật dờ / Con đường của thơ ngời ngời oan
nghiệt
Gần khép trần gian mà thơ mù biệt / Mới hiểu ngậm ngùi mấy
kẻ thành danh
Cụm từ "ngời ngời oan nghiệt" nói lên nghịch lý của cuộc đời thi sĩ:
ngời ngời mà oan nghiệt. Thi sĩ là người đưa ra ánh sáng những gì ẩn chứa dưới
nền đất . Thi sĩ khó mà sống nổi bằng thơ mà cũng không gì tôn vinh bằng thi
sĩ. Dù sao thì Hoàng Lộc vẫn đi theo thơ, vẫn cột chặt thể mệnh đời mình cùng
với thi ca:
Anh khập khiểng chân thêm ngàn bước nữa / Mà vẫn đành hun hút lối tình si
Con đường thi ca là con đường đi mà không tới? / Đi không tới bởi thôi
rồi cạn kiếp / Gió suy vi thổi rã những cành tàn
Rồi đến một ngày (sắp đi x) anh vẫn không quên chuyện cũ:
Rồi mắt khép cũng ngập ngừng cố sự / Lũ mưa chiều nắng sớm ghé
phân ưu
Một kiếp nữa với dặm ngàn lữ thứ / Anh còn bay đâu đó với mây
trời
Tình yêu trong thơ Hoàng Lộc chỉ là sương khói. Nó lãng đãng chập chờn trong
thoáng chốc như gió thoảng mây trôi. Đó là những giọt tình lấp lánh như sương
mai trong nắng.
Một lần gặp lại người xưa -sắp làm mẹ:
Cái bụng của nàng sao mà chướng vậy / Ta đứng trông theo bất giác
đau lòng
Chiếc áo dưỡng thai che mười-phần-gã-ấy / Có phần nào sương khói
của ta không?
Có phần nào sương khói của ta không ? Chắc chắn rằng không. Chính vì vậy mà anh
đau lòng!
Lắm khi nhà thơ cảm thấy mệt mõi vì tình, mệt vì tình phụ, mệt vì điều tiếng
thị phi:
Có những thứ tóc xanh phải lòng đầu bạc / Thì mắc chi thiên hạ lo phiền
Ví đống tuổi nầy rứt ra mà bán được / Thì chắc buổi chiều anh
xuống phố cùng em
Mệt mỏi, phiền phức quá bèn kiếm chỗ nghỉ ngơi:
Nghỉ ngơi cho rồi hỡi gã làm thơ / Đĩa dầu đã hao đêm còn gió nổi
Kiếm một chỗ nằm, nghe mình hối lỗi / Về một chữ tình đáng lẽ
không nên
Dầu thì hao, bấc thì cạn, gió vẫn nổi ,...Hối vì "một chữ tình đáng lẽ
không nên". Trong cõi nhân sinh, tình yêu vừa là dược tố vừa là độc
tố . Về điểm nầy ,Tuệ Sỹ - luận gia về tính không - nói rất rõ: "Tình
yêu và tri thức nào nhấn con người xuống vũng sình của ngu muội và ngông cuồng
đặt cho nó cái tên là Ái và Kiến. Tình yêu và tri thức nào chắp cánh cho con
người bay vào hư không vô tận, chúng được gọi là đại bi đại trí "
Tình
yêu trong thơ Hoàng Lộc không có độc tố phiền não vì không sầu bi khổ lụy .
Tình yêu trong thơ Hoàng Lộc vô cầu vô nhiểm ; cho nên dù có yêu thêm muôn kiếp
nữa thì "anh vẫn bay đâu đó giữa mây trời"
"Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ
" (Trịnh công Sơn). Có điều đáng trân quý ở tấm lòng nhà thơ đó là chung
thủy :
Tóc ta thay màu và em thay áo / Vì thế cho nên có chuyện đổi
dời...
...Ta ai hoài em ngời ngời tai kiếp / Tóc ta thay màu mà lòng thì không
Con đường thơ thì ngời ngời oan nghiệt , còn đường tình thì ngời
ngời tai kiếp .Dù oan nghiệt hay tai kiếp gì thì vẫn cứ ngời
ngời. Bởi thế mới có thơ rằng: "Cái tình là cái chi chi, dù chi chi cũng
chi chi với tình (Nguyễn công Trứ).
Người yêu cuối cùng quanh quẩn cuối đời cùng với nhà thơ chính là
"mẹ các con".
Nếu gia đình là thánh đường thì tín đồ tình yêu trở về với gia đình, ở đó
có các con và mẹ các con :
Em thế nầy đây mà ta đã tán / Láng giềng ơi ! cái thuở rất không ngờ
Em thế nầy đây mà ta lãnh đạn / Có đứa phải lòng em đòi mổ bụng
gã làm thơ .
Nhà thơ không chỉ ca ngợi nhan sắc một thời của "mẹ các con" mà còn
cảm thán đức hạnh kham nhẫn, chịu đựng của người bạn đời trong các bước thăng
trầm cùng anh .
Em thế nầy đây mà ta đã cưới / Phải cùng ta chịu chừng ấy thăng trầm
Từng làm vợ quan, làm vợ thằng tù tội / Rồi cũng đành làm vợ một
tha hương
Cuối cùng thì cái nhan sắc đáng được ngưỡng mộ nhất vẫn là diện mạo của người
tình trăm năm:
Em
thế nầy đây mà ta ngưỡng mộ / Tha hương tha hương hề em buồn không?
Tóc cùng hoa râm, ít nhiều bở ngỡ / Vẫn ngó nhau cười bên cạnh
các con
Đúng là "Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên
nhau" (Trịnh công Sơn).
Chữ tình hay cái tình trong thơ Hoàng Lộc thật là mênh mông, chan chứa
...
Về tình yêu quê hương đất nước đối với anh thật là đặc biệt : tình cố hương
và tình cố quốc ! Càng xa quê anh càng nhớ quê . Ra đi xa cố hương, xa tổ quốc
đối với anh là chuyện bất đắc dĩ:
Cây đã già đời đem bứng gốc / Sót đôi chút rể, vứt bên trời
Tiếng kêu cứu gửi từ tâm đất / Dơ dáng hình cây đứng lẻ loi
Ta đã già rồi qua xứ khác / Tiêu điều thân thế bóng cây khô
Hiểu sao quít ngọt về Giang Bắc / Giỏi bấy tay trồng cũng hóa chua
Quít trồng ở Giang Nam thì rất ngọt bứng đem về trồng Giang Bắc lại hóa chua;
ấy là vì không hợp với thổ ngơi thổ nhưỡng ...Nơi xứ lạ quê người, Hoàng Lộc
cảm thấy lẻ loi, đơn độc .Nhiều năm trời nơi đất khách, Hoàng Lộc bỏ bê nghiên
bút, bởi có làm thơ thì "viết cho ai, ai biết mà đưa"
"Giao du khắp thiên hạ / Tri âm được mấy
người"
Cơm áo nghe ra đời quá cực / Bỏ bê nghiên bút kể nhiều năm
Hiểu sao nhị cú tam niên đắc / Chỉ nửa câu đây đủ khóc ròng
Nhị cú tam niên đắc: ba năm viết được hai câu (lấy từ ý thơ của Giả Đảo):
Ba năm được hai câu / Đọc lên mà muốn khóc
Tri âm không còn ai / Về núi xưa ngủ trớt
Còn đối với Hoàng Lộc chỉ mới nửa câu "đủ khóc ròng". Ấy mới
hiểu vì sao Bá Nha đập vỡ cây đàn!
Định cư trên đất Mỹ mà Hoàng Lộc vẫn mang tâm trạng ăn nhờ ở đậu:
Ngồi góc quê người, coi lá rớt / Bỗng mừng khi lá mắc trên
cây
Thà khô héo chết theo cành mục / Hơn phải sa cơ rụng đất
nầy
Lá rụng về cội: cội nguồn quê cha đất tổ!
Một hôm, ngồi vọng về Thái Bình Dương để định hình cõi nước:
Nhiều lần anh ra biển / Ngó qua Thái Bình dương
Hun hút tầm con mắt / Biết cõi nào Việt nam !
Nhớ nước nhớ quê, nhớ cả những người đồng hương Xứ Quảng ở tận ...xứ Bến Tre:
Gởi Quảng Bến Tre / Dân Quảng Nam đi đâu cũng ưa lập hội
Đi đâu cũng cố nối tình quê / Hội thơ Bảy Hiền, hội Quảng ở Cali,
Boston, Atlanta, Dallas…
Sao anh mãi nao lòng vì em, Quảng-Bến-Tre
Rồi
từ trái tim đến trái tim, tình yêu mới gợi được tình yêu: một em Quảng Bến Tre
"gởi anh Quảng xa xứ "
Đọc bài thơ gởi Quảng / Mấy chục mạng nao lòng
Thương anh Quảng xa xứ / Một chử TÌNH nên THƠ
Quê xứ hoài xa xăm / Biết khi mô anh
về !
Tình đồng hương, tình cố hương , tình bạn bè đã khiến anh:
Từng mơ về lại Bến Tre / Nôn nao vì nỗi bạn bè, đồng hương
Nhưng chưa về đã lo nỗi chia xa:
Ra đi là chuyện trời đày / Về thăm cũng chỉ đôi ngày lại
xa
Nhớ đồng hương rồi lại nhớ bạn hiền, nhớ Đồng Đức Bốn, nhớ Đinh Trầm Ca
,...Một bữa, ngồi uống rượu với Uyên Hà ở Tennessee:
lâu lắm mới được ngồi với bạn / nhắc chuyện xưa và kể chuyện nay
một ngày nói với dễ chi đủ / rượu rót hoài mà không
biết say
Đúng là "Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu"
cùng điểm danh từng đứa bạn cũ / trong lòng có lúc lặng -
nhìn nhau
bao nhiêu đứa đã không về nữa / thầm biết mình chẳng còn
bao lâu ...
Sinh ly tử biệt là nỗi đau khôn cùng của giống hữu tình. Hoàng Lộc là đệ nhất
hữu tình bởi lòng anh trang trải cho nhiều người ở khắp mọi nơi:
nhắn bạn mai chiều lại cố quán / thấy ai quen cũng nói lời thăm
thấy mỗi nàng thơ ta xiêu tán / đều cho ta rớt hạt lệ buồn ...
Hoàng Lộc không những yêu người mà yêu cả cuộc đời, mong cho cây đơi mãi mãi
xanh tươi, mong cho sông suối, mương rạch, mạch ngầm đủ nước nuôi cây:
Mùa đã khô rồi sông hết nước / Và ta, cây đã không còn cây
Mặt trời cứ tận cùng sức nóng / Như muốn thiêu tan trái
đất nầy
Nước sông mỗi ngày một cạn, người người đều ô trọc. Trong cái lò thiêu của trời
đất, biết ai là giống hữu tình đây?
Giang hà nhật hạ nhân ô trọc / Vũ trụ lô trung thục hữu
tình?
Người người ô trọc vì quá thực dụng rồi trở nên riết róng vô cảm:
Không thể rồi em, đời cạn kiệt / Không còn những thứ để
nuôi nhau
Để nuôi ta - nuôi tình một thuở / Để xanh em cho ta bạc
đầu
Con người tàn hại môi sinh , vắt cạn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đua nhau
chiếm hữu đất đai, chiếm hữu quyền lực, tiền bạc, danh vọng; không hề quan tâm
đếm xỉa đến chữ tình, chữ nghĩa:
Nắng rát mặt mùa - đất đã nứt / Cây ta duỗi thẳng những
cành trơ
Cả những mạch ngầm nước cũng tắt / Chỉ mắt em còn mấy giọt
khô
Riết
rồi em không còn nước mắt để khóc!. Thế đấy, cái tình cái tâm của Hoàng Lộc bao
trùm suốt cõi nhân sinh. Như Hoàng Lộc, đích thị là nhà thơ đa tình - " Đa
tình thị Phật tâm" như anh từng thú nhận
Bồ tát tâm rất Phật / như ta đây đa tình
Hoàng Lộc là người con yêu của xứ Quảng - là tinh hoa tích tụ của văn minh sông
Thu, của đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm. Người Quảng Nam mẫn tiệp nhạy bén như
đất - dân Quảng Nam luôn tiên phong trong các phong trào chính trị, xã hội, thi
ca (Phan Khôi là người đầu tiên khởi xướng phong trào thơ mới).
Đất Quảng Nam sinh
ra những nhà thơ nổi tiếng như Bùi Giáng, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Tường Linh,
Nguyễn Nho Sa Mạc, Đinh Trầm Ca,...Đó là nhờ hấp thụ khí thiêng sông núi - con
sông Thu Bồn khởi nguyên từ dãy Trường Sơn chảy qua vùng thượng du, trung du rồi
xuôi về Hội An, Cửa Đại ...đã bồi đắp nên những bãi bờ dâu xanh bát ngát.
.......................................................................................................
Kính,
NNS
__._,_.___
Posted by: Phung Tran