***SUPER
HD "Anh Giải Phóng Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh -Nhật Ngân -Hải Lý
-NNS"
***GS NNS NGUYEN NAM SON
-3 PLAYLIST
Moi qui than huu thuong
thuc
TRAN NANG PHUNG
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Giao Su Tran Nang Phung duoc su giup do cua nhieu nhan
tai khap noi tren the gioi da thuc hien nhung Video nghe thuat de
gioi thieu nhung nhac pham cho...
|
|
|
Preview by Yahoo
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lá Thư Úc Châu
Trang Thơ Nhạc cuối Tuần: 10-8-14
Nhật Ngân:
Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh
Tiếng hát: Hải Lý
Kính,
NNS
.......................................................................................................
(1) Ts Vũ Quang Việt: TQ tham nhũng hiệu quả hơn VN
Một trong những chuyên gia Thống kê Kinh tế nói dù có nhiều điểm
giống nhau nhưng Việt Nam thua kém Trung Quốc đáng kể về hiệu quả quản lý
kinh tế và trọng dụng nhân tài.
Trong cuộc phỏng vấn với Nguyễn Hùng của BBC, ông Vũ Quang Việt, người từng làm
việc nhiều năm cho Liên Hiệp Quốc, nói rằng Trung Quốc "tham nhũng hiệu
quả" hơn Việt Nam vì họ "làm được việc" và họ cũng có những lãnh
đạo được đào tạo bài bản tại các trường hàng đầu của Trung Quốc.
BBC: Khi so sánh Việt Nam Trung Quốc, ông cho rằng cả hai bên đều giống
nhau ở chỗ “xã hội hóa rủi ro nhưng “tư nhân hóa lợi ích”. Ông cũng nói hai bên
đều có vấn nạn tham nhũng nhưng ở Trung Quốc thì tham nhũng “hiệu quả hơn”. Ông
có thể nói rõ hơn.
TS. Vũ Quang Việt: Nhiều người nói và báo chí cũng đã đưa lên là con cái
của các quan chức Trung Quốc đều giàu có cả, gia đình họ cũng giàu có và Việt
Nam cũng hệt như vậy. Và những người liên quan tới các hoạt động đầu tư của các
công ty nhà nước thì cũng vậy cả. Tham nhũng trong đầu tư công là 20%-30%. Khi
hỏi những người trong ngành thống kê hoặc những người liên quan tới việc làm ăn
thì họ cũng đều nói như vậy cả. Họ trả lời là họ phải bôi trơn 30%. Thì 20%-30%
là chuyện bình thường. Mà tại sao lại có thể bôi trơn dễ dàng như vậy là vì đầu
tư của Trung Quốc và của Việt Nam là rất lớn, khoảng 40%-50% GDP, trong khi các
nước Tây phương thì nhiều lắm cũng chỉ 20%, ở Hoa Kỳ đầu tư cũng chỉ khoảng
mười mấy phần trăm GDP. Trung Quốc và Việt Nam muốn phát triển cho thật nhanh
nên họ đầu tư rất nhiều. Mà đầu tư ở đây là chủ yếu là quốc doanh, công ty nhà
nước đầu tư. Do đó tham nhũng là dễ dàng.
'Tham nhũng hiệu quả?'
Nhưng tại sao Trung Quốc tham nhũng hiệu quả hơn? Ta cứ nhìn GDP của Trung Quốc
thì thấy phát triển rất cao, trong khi từ 2006 trở lại đây GDP của Việt Nam
tiếp tục xuống. Lạm phát Trung Quốc chỉ 2-3% là cùng trong lúc ở Việt Nam có
lúc lạm phát lên tới 20-30% mặc dù bây giờ giảm xuống còn 6-7% nhưng trong kinh
tế mà lạm phát như vậy là ở mức rất lớn và là ở mức không chấp nhận được. Do đó
rõ ràng là hiệu quả của Việt Nam là không có.
Một trong những cái để so sánh về hiệu quả là Trung Quốc càng ngày càng nắm
được công nghệ của thế giới. Trung Quốc để Nhật đầu tư vào công nghệ tàu hỏa
cao tốc, sau đó họ học được công nghệ, nay họ không những tự làm được mà không
cần tới Nhật mà còn xuất khẩu tàu này sang các nước khác kể cả tại Calirfornia,
Hoa Kỳ. Họ xây dựng đường xá cầu, nhà máy điện. Trong khi đó 60-70% các dự án
trong lĩnh vực này của Việt Nam là để Trung Quốc trúng thầu. Trong mấy chục năm
phát triển Việt Nam không xây nổi đường, tại sao phải cần tới nhà thầu Trung
Quốc? Tại sao nhà thầu Việt Nam không thắng nổi?
BBC: Câu hỏi đặt ra là tại sao Việt Nam không tập trung vào phát triển
công nghệ. Có phải do thiếu hiểu biết về chính sách hay do lợi ích nhóm?
TS. Vũ Quang Việt: Có lợi ích nhóm. Nhưng ở Trung Quốc thì những người
lãnh đạo của họ là thành phần có đầu óc. Theo tôi hiểu thì những người lãnh đạo
cao cấp nhất của Trung Quốc như Tập Cận Bình hay Giang Trạch Dân đều học ở
những trường lớn nhất, những trường khó vào. Chẳng hạn như Đại học Bắc Kinh,
Đại học Thanh Hoa… là các trường có thể mang so sánh với Harvard hay MIT của
Hoa Kỳ. Tức là họ chọn lựa từ sớm những người có khả năng lãnh đạo. Còn những
người lãnh đạo Việt Nam thì rất hãnh diện là ngày xưa mình chỉ biết cầm súng, bây
giờ mình là lãnh đạo. Bản thân những người lãnh đạo đó lại không biết sử dụng
những người có tài. Chỉ biết sử dụng đám bộ sậu của mình, người của mình, sẵn
sàng đi với mình và làm theo lệnh của mình và hai bên cùng chia lợi trong các
dự án đầu tư phát triển. Do đó Việt Nam chả có cái chất lượng gì cả. Do đó tôi
nói là tham nhũng ở Trung Quốc nó vẫn tạo ra sự phát triển và tạo ra chất
lượng. Tham nhũng tại Việt Nam chả tạo ra được hiệu quả gì. Tôi có thể lấy ví
dụ là cán bộ làm thống kê ở Trung Quốc thì có thể sống được bằng đồng lương chứ
không cần đi làm thêm công việc khác còn cán bộ cũng trong ngành này ở Việt Nam
thì luôn phải chạy làm việc khác. Ở Trung Quốc khi họ làm gì thì họ đặt ra mục
tiêu và cố gắng để thực hiện mục tiêu đó. Còn những cán bộ Việt Nam nếu lấy
được tiền làm dự án thì cố làm sao để tăng thu nhập cho mình chứ chẳng có tinh
thần cố gắng và học hỏi gì cả.
'Đánh nhau suốt ngày'
BBC: Được biết Việt Nam có tới cả trăm người tốt nghiệp tại các trường
lớn như Harvard ở Hoa Kỳ, nhưng câu hỏi đặt ra là liệu những người này có được
trọng dụng hay không?
TS. Vũ Quang Việt: Giai đoạn trước thì giới lãnh đạo họ biết rằng họ
không đủ hiểu biết về khoa học nhưng họ còn sẵn lòng họ nghe. Sau này thì không
có chuyện đó nữa. Do đó tôi không nghĩ rằng họ biết sử dụng nhân tài.
BBC: Việt Nam gần như gắn kết với Trung Quốc về ý thức hệ và quan hệ
giữa hai đảng, vậy sao họ chia sẻ nhiều như vậy mà không chia sẻ được thành quả
của nhau?
TS. Vũ Quang Việt: Trung Quốc thì tổng bí thư cũng là chủ tịch nước và
chỉ có một người lãnh đạo toàn diện và họ sử dụng các biện pháp độc tài và kiểm
soát thì ít tự do hơn Việt Nam. Còn Việt Nam thì thực ra gọi là ba phe: Chủ
tịch nước, Tổng bí thư và Thủ tướng. Việt Nam chưa bao giờ thực sự là một phe
cả và đánh nhau suốt ngày. Mà đánh ở đây là đánh ở dưới gầm bàn chứ không phải
tranh luận nhau trên báo chí hay trước công chúng hay tranh luận trong đảng. Và
như vậy không ai kiểm soát được ai cả. Thì mỗi phe dĩ nhiên là phải có nhóm lợi
ích riêng của mình. Và đã gọi là nhóm lợi ích thì nhóm lợi ích kinh tế là mạnh
nhất.
(2) Ts Nguyễn Tuấn: Món quà cho ông John McCain
(Chú thích: BBC-7/8/14: Hai
thượng nghị sỹ Hoa Kỳ John McCain và Sheldon Whitehouse có chuyến thăm
Việt Nam bắt đầu từ thứ Sáu 8/8.Nội dung chuyến đi, hiện chưa rõ
lịch trình, được nói chung chung là để thúc đẩ̀y quan hệ giữa hai
bên. BBC được biết chiều 8/8 hai ông sẽ có cuộc họp báo ở Hà Nội để
nói về quan hệ Mỹ-Việt, các vấn đề song phương và khu vực.
Thượng nghị sỹ John McCain, người được cho là ủng hộ bỏ cấm vận vũ
khí sát thương cho Việt Nam, ngay từ mấy năm trước đã tuyên bố một
cách lạc quan rằng "đây là chủ đề mà tôi cho là hai nước có thể
giải quyết một cách tích cực". Là nhân vật có ảnh hưởng trong
Ủy ban Quân vụ của Thượng viện Hoa Kỳ, việc ông McCain có mặt ở Hà
Nội tuần này làm nổi lên câu hỏi liệu Việt Nam và Mỹ đã đến rất
gần một thỏa thuận mới trong chủ đề này?
Ông John McCain từng là ứng viên tổng thống của Đảng Cộng hòa và ông
có nhiều duyên nợ với Việt Nam, từng thăm Việt Nam nhiều lần. Ông
từng tham chiến ở Việt Nam và bị cầm tù sau khi máy bay của ông bị bắn
hạ trên bầu trời Hà Nội.
Hôm 23/7, trong chuyến đi Hoa Kỳ của mình, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng
CSVN, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị cũng hội kiến ông McCain
ở trụ sở Quốc hội Mỹ. Vào cuối cuộc tiếp xúc, ông Nghị tặng ông
McCain hai tấm ảnh khổ A4, chụp tấm bia tại đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch
trên có hình ông McCain bị bắt làm tù binh 47 năm trước. Phóng viên Việt
Nam đi theo đoàn thuật lại rằng ông Nghị nói với ông McCain lúc đó:
"Thật tình, tôi không biết ngài có muốn có nó hay không? Nếu ngài không
thích thì ngài có thể không công bố cho bất kỳ ai được biết. Còn ngài thích,
thì tùy ngài". Đáp lại, ông McCain chỉ vào tấm ảnh và than phiền
rằng ông là "thiếu tá hải quân chứ không phải là thiếu tá không quân.
Tôi thuộc lực lượng không quân của hải quân. Các ngài đã ghi vào tấm bia này
không đúng". Hành động của ông bí thư Hà Nội đã thu hút khá
nhiều bình luận trên các diễn đàn mạng, trong đó một số ý kiến chê
trách ông 'thiếu nhạy cảm'. Tuy nhiên sau đó, ông John McCain vẫn tình
nguyện dẫn đoàn của ông Phạm Quang Nghị đi tham quan trụ sở Quốc hội
Hoa Kỳ)
Món quà ngoại giao? Đọc bài
viết khá dài này (1), phải chú ý lắm mới biết món quà ông Phạm Quang Nghị tặng
Thượng nghĩ sĩ John McCain là gì. Thì ra đó là hai bức hình: một hình chụp cái
bia dựng bên hồ Trúc Bạch sau khi ông John McCain bị bắt tại đó vào năm 1967,
và một hình ghi lại viên phi công đang giơ tay đầu hàng. Tôi không rõ viên phi
công đó là ai, có phải là John McCain? Tôi tò mò tìm hiểu cái bia đó viết gì,
thì thấy hơi sốc … Tấm bia đó rất khó tìm, nhưng một bản chụp lại và post trên
trang blog hoangsaparacels.blogspot.com.
Tấm bia viết nguyên văn như sau (có chỗ không rõ nên tôi để trong […]).
“NGÀY 26 10 1967 TẠI HỒ TRÚC BẠCH QUÂN VÀ DÂN THỦ ĐÔ HÀ NỘI BẮT SỐNG TÊN JOHN
SNEY MA CAN THIẾU TÁ KHÔNG QUÂN MỸ LÁI CHIẾC MÁY BAY A4 BỊ BẮN RƠI TẠI NHÀ MÁY
ĐIỆN YÊN PHỦ […]”
Chú ý những chữ như “tên”, cũng may là không có hai chữ “giặc lái” phía sau!
Tấm bia ngắn nhưng có ít nhất 2 thông tin sai một cách hiển nhiên. Tên ông John
Sidney McCain bị viết sai là “JOHN SNEY MA CAN”. Ông ấy là sĩ quan hải quân,
nhưng tấm bia ghi là thiếu tá không quân. Hèn gì khi đưa cho ông McCain tấm
hình, ông ấy nói “tôi cảm thấy không thể hài lòng (người phiên dịch đã dùng một
từ khá mạnh là "bị xúc phạm"). Ngài có biết không, tôi là thiếu tá hải
quân chứ không phải là thiếu tá không quân. Tôi thuộc lực lượng không quân của
hải quân. Các ngài đã ghi vào tấm bia này không đúng".
Tôi nghĩ món quà (hay hai bức hình này) mà tặng cho John McCain là không thích
hợp. Ông McCain bị bắn rơi và trở thành tù binh ở Hà Nội trong suốt 5 năm rưỡi.
Đó là một thời gian tù đày dài, không bao giờ xoá nhoà trong kí ức của ông. Nó
như một vết thương lòng của một người. Vậy mà, bẵng đi một thời gian dài khi
hai nước đã có bang giao tương đối tốt, thì đột nhiên có người đem hai tấm hình
đến làm quà để khơi dậy một thời nhục nhã. Thử tượng tượng, người ta chụp hình
tấm bia trong đó người ta đề cập đến mình một cách miệt thị (nhưng viết sai),
và đem tặng cho mình. Nó chẳng khác gì cách nói: Tao chửi mày trên bia, và bây
giờ tao tặng hình cái bia đó cho mày. Thật là một món quà không thích hợp.
Không biết ông McCain nghĩ gì khi nhận hai tấm hình, nhưng đối với nhiều người
bình thường, thì món quà đó có thể xem là một sự hạ nhục người chủ nhà. Nếu hạ
nhục là quá đáng, thì tasteless có thể là một chữ khác có thể dùng để mô tả hai
bức hình. Có thể ông giả bộ cười cười nói nói, nhưng trong thâm tâm ông nhớ lại
những gì ông viết trong thời gian tù binh. Ông có kể lại thời gian bị cầm tù,
thẩm vấn (không thấy kể có bị tra tấn hay không) trong Hoả Lò [2]. Đọc câu
chuyện thẩm tra của ông chúng ta thấy rất giống những câu chuyện của các tù
binh VNCH bị giam cầm trong các trại cải tạo trước đây, và cũng tương tự như
những câu chuyện của những người bị giam cầm ngày nay. Trong câu chuyện, Ông McCain
không hề dấu diếm rằng ông xem thường trình độ của họ, tỏ ra rất khinh bỉ những
người thẩm vấn ông, và ông gọi họ là The Cat (mèo), The Rabbit (thỏ), thậm chí
nặng nề hơn là “gook”, v.v. [2].
Trước đây, Nhà văn Phạm Thị Hoài có nhận xét rằng các món quà ngoại giao của
các lãnh đạo VN thường rất nhàm chán, và chỉ xoay quanh những món như tranh Hồ
Chí Minh, chùa Một Cột, và Tháp Rùa [3]. Nhà văn mỉa mai gọi là “Ngoại giao
Tháp Rùa”. Ngày hôm nay, các lãnh đạo VN đã có cố gắng đổi mới quà cáp, nhưng
khổ nỗi, lần đổi mới áp dụng cho ông John McCain theo tôi là một sơ suất đáng
tiếc. Ông John McCain là người thẳng thắn, ông từng nói trước một cử toạ ở Sài
Gòn rằng “wrong guys […] had won the Vietnam War”, biết đâu lần này ông nghĩ
trong đầu “the right guy has given a wrong present”.
Note: (1) http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/189997/mon-qua-ong-pham-quang-nghi-tang-tns-mccain.html.
Bài dài, có nhiều đoạn biện minh rất buồn cười, và mang tính nịnh hót lãnh đạo.
// (2) http://www.usnews.com/news/articles/2008/01/28/john-mccain-prisoner-of-war-a-first-person-account.
Có đoạn ông gọi hai người thẩm vấn là Con Mèo (The Cat) còn người kia là Con
Thỏ (The Rabbit). Ông mô tả những người thẩm vấn này ngu xuẩn (They took me up
into one of the interrogation rooms, and for the next 12 hours we wrote and
rewrote. The North Vietnamese interrogator, who was pretty stupid, wrote the
final confession, and I signed it. It was in their language, and spoke about
black crimes, and other generalities.) // (3) http://www.procontra.asia/?p=1522
(ii) Ts Nguyễn Văn Tuấn: Ông McCain bị xúc phạm?
Liên quan đến hai bức hình ông Phạm Quang Nghị tặng cho ông McCain, phóng viên
đi theo ông PQN cho biết rằng ông McCain có dùng chữ "xúc phạm" (có lẽ
là offended). Phóng viên viết rằng ông McCain cảm thấy bị xúc phạm khi tấm bia
ghi ông là thiếu tá không quân, trong khi ông là thiếu tá hải quân. Tôi không
nghĩ ông bị xúc phạm vì ai đó ghi sai binh chủng của ông. Tôi nghĩ có thể ông
McCain bị xúc phạm vì hai bức hình mà ông PQN tặng cho ông. Có thể vì ông nói
tiếng Anh nhanh nên phóng viên nghe không rõ, hay có thể người phiên dịch cố
gắng làm “nhẹ” đi vấn đề, nên mới lấy vụ binh chủng ra làm cái cớ. Nếu ông bị
xúc phạm vì ghi sai binh chủng, thì chắc ông cũng bị xúc phạm vì ai đó viết sai
tên của ông. Do đó, tôi nghĩ chính hai tấm hình làm quà đó mới là thủ phạm làm
ông bị xúc phạm.
Không xúc phạm sao được khi tấm bia gọi mình một cách miệt thị là “tên”. Không
xúc phạm sao được khi bức hình chụp đồng đội của ông giơ tay đầu hàng, mà bây
giờ họ cho mình làm ... quà! Tất cả đều được thiết kế để hạ nhục ông, và có thể
xa hơn nữa là hạ nhục quân đội Mĩ. Tôi tự hỏi không biết nếu ông PQN sang thăm
Tàu và tặng cho Dương Khiết Trì tấm hình du kích VN áp tải lính Tàu trong trận
chiến 1979? Chắc là không dám. Nếu không dám thì tại sao ông làm điều đó với
ông John McCain?. Hình như chính ông Phạm Quang Nghị cũng không thoải mái khi
đưa quà, vì ông ngập ngừng nói “Thật tình, tôi không biết ngài có muốn có nó
hay không? Nếu ngài không thích thì ngài có thể không công bố cho bất kỳ ai
được biết. Còn ngài thích, thì tùy ngài". Kể cũng lạ! Nếu đoán được người
ta không thích thì hà cớ gì đem tặng cho người ta? Lại còn nói đừng công bố?!
Khi hai bức hình đã được mở ra thì cả đoàn VN ai cũng thấy, đó là công bố rồi.
Thật là một phát biểu lạ lùng!
Nói chung qua vụ việc tặng quà cáp này chúng ta mới thấy sự vụng về của phía VN
trong giao tiếp quốc tế. Hoàn toàn thiếu sự tinh tế trong giao tiếp. Viết tên
người ta sai be bét mà đem đi tặng người ta! (Tôi phải mở ngoặc để nói rằng
người phương Tây rất quan trọng cái tên; họ rất giận nêu ai đó viết sai tên của
họ). Nó còn thể hiện sự tuỳ tiện và cẩu thả của các quan chức VN. Làm cái gì
cũng sai, một tấm bia nhỏ như thế mà cũng sai be bét! Những chống chế như “Với
người Việt Nam chúng tôi, bất cứ ai là phi công lái máy bay, chúng tôi đều coi
họ thuộc lực lượng không quân” thì tôi nghĩ ông McCain chỉ biết cười. Cười ở
đây không có nghĩa là chấp nhận lời giải thích của ông PQN, mà là một cách nói:
mấy người này chẳng biết gì cả. (Đó là một cách nói: dốt). Đến thăm chủ nhà mà
không tìm hiểu chủ nhà là ai thì quả là tệ.
(iii) Ngọc Nhi Nguyễn: Đài truyền hình Nga phỏng vấn người lính Xô Viết bắn rớt máy bay của ông John Mc
Cain
Từ trước đến nay, đảng CSVN luôn khoe khoang là quân dân miền Bắc đã bắn
hạ máy bay của ông Thượng nghị sĩ Mỹ John Mc Cain năm 1967, lúc đó còn là thiếu
tá Hải quân trong quân đội Mỹ. Thậm chí khi sang Mỹ ngoại giao, Bí thư thành ủy
Phạm Quang Nghị đã tặng ông John Mc Cain 2 tấm hình khổ A4 chụp tấm bia bên hồ
Trúc Bạch, nơi máy bay của ông bị bắn rơi, khiến ông bị bắt làm tù binh và bị
giam trong Hỏa Lò hơn 5 năm. Tấm bia bên bờ hồ còn ghi dòng chữ "Ngày 26
10 1967 tại hồ Trúc Bạch quân và dân Hà Nội bắt sống tên John sney ma can thiếu
tá không quân Mỹ lái chiếc máy bay A4..."
Có người cho rằng ông Thượng nghị sĩ Mỹ John Mc Cain đã bị sỉ nhục khi nhận món
quà quái gở này, nhưng trên thực tế chính Phạm Quang Nghị và đảng CSVN mới bị
sỉ nhục, vì họ không hề biết rằng từ năm 2008, một cựu sĩ quan Nga tên Yury
Trushyekin, đã tuyên bố trên báo chí và truyền hình Nga rằng ông ta mới chính
là người bắn hạ máy bay và bắt sống ông Mc Cain. Mặc cho đảng CSVN tìm mọi cách
giấu diếm việc quân đội Liên Xô và Trung Quốc đã trực tiếp tham gia chiến tranh
VN suốt 1 thập niên từ 1960 đến 1970, Trung Quốc và Nga ngày nay chẳng ngần
ngại nói ra sự thật đó.
Ông Yury Trushyekin cho biết trong suốt thập niên 1960 -1970, đã có hàng ngàn
binh lính và sĩ quan Nga được điều động sang miền Bắc Việt Nam để giúp quân
cộng sản Bắc Việt chống Mỹ. Đa phần làm công tác cố vấn, ngoài ra còn có mặt
trực tiếp tại chiến trường để huấn luyện cho bộ đội CSVN cách sử dụng những vũ
khí mà Nga cung cấp. (Ông trưng ra hình ảnh, hộ chiếu và cả 1 bằng khen của nhà
nước CS Bắc Việt làm bằng chứng). Riêng về việc bắn hạ máy bay của ông John Mc
Cain, ông Yury Trushyekin cho biết bộ đội VN toàn bắn hụt, ngày hôm đó đã bắn
hết 12 quả đạn tên lửa mà chẳng trúng quả nào! Khi chỉ còn 1 quả cuối cùng, ông
đã phải thân chinh nhắm bắn mới hạ được phi cơ của ông Mc Cain. Ông còn cho
biết chính ông đã cứu mạng ông John, vì khi bộ đội CSVN vớt ông này lên, lúc đó
đã bị gãy hết 2 tay và 1 chân, thì với lòng căm thù cao độ được huấn luyện sẵn,
1 đám đông đã nhào vào đánh đập, đâm ông này suýt chết. Ông Yury Trushyekin và
đồng đội đã phải can thiệp và ra lệnh cho bộ đội ngừng tay và chỉ được bắt
sống.
Trong cuốn hồi ký của mình, ông Mc Cain cũng kể lúc bị bắt, mặc dù bị trọng
thương mình mẩy đầy máu và lúc ngất lúc tỉnh, ông đã bị hàng trăm tên bộ đội
xông vào đấm đá, nhổ nước bọt và có ai đó còn cầm cả lưỡi lê đâm vào hông và
chân ông! Ông Yury Trushyekin kể tiếp rằng sau đó ông có vài lần vào thăm ông Mc
Cain trong Hỏa Lò, nơi còn được gọi mỉa mai là "khách sạn Hà Nội Hilton".
Ông nói CSVN đã cố gắng "cải tạo tư tưởng" cho ông John bằng cách bắt
ông này đọc những quyển sách giáo điều cộng sản dày cộm, bao gồm cuốn của Karl
Marx. Khi được hỏi nếu bây giờ gặp lại ông John Mc Cain thì ông sẽ nói gì? Ông
Yury Trushyekin bảo ông sẽ hỏi ông John đã đọc hết cuốn Marx chưa! Riêng ông Mc
Cain cho biết lúc đầu ông bị đối xử rất tệ hại, nhưng sau khi biết được ông là
con trai và cháu nội của 2 vị tướng lừng danh của Mỹ thì ông được ưu đãi hơn,
vì CS Bắc Việt biết ông có giá trị trao đổi. Lúc đó ông mới được chữa trị vết
thương, và cái chân gãy được mổ, nhưng các bác sĩ làm việc quá dở làm dứt hết
mấy sợi gân, khiến chân ông bị tật cho đến bây giờ...
(3) Trần Trung Đạo: Hiểm họa Trung Cộng và bài học “Phần Lan hóa”
(Finlandization)
Trong bài viết Việt Nam đối diện với việc “Phần Lan hóa” từ Trung
Quốc (Vietnam Faces ‘Finlandization’ from China) cuối tháng Năm vừa qua trên
báo Asiasentinel, David Brown, một cựu nhân viên ngoại giao Mỹ, viết: “Như vậy,
trong khi Washington dường như đã sẵn sàng vẽ một lằn ranh quanh Nhật Bản, Hàn
Quốc và cũng có thể Singapore và eo biển Malacca, Hải quân Hoa Kỳ đang từ bỏ
việc đương đầu tại một khoảng xa cách từ bờ biển Việt Nam.” Tác giả viết tiếp
“Điều đó có thể được hiểu rằng, Mỹ đang dự định chấp nhận nhìn Việt Nam bị
“Phần Lan hoá”.
Tháng 9 năm 2010, trong một bài viết trên tờ Wall Street, Andrew Krepinevich,
Chủ tịch Trung tâm Định ước Ngân sách và Chiến lược (the Center for Strategic
and Budgetary Assessments) cũng cảnh báo Trung Cộng đang tiến hành “Phần Lan
hóa” Thái Bình Dương: “Liên Xô chưa bao giờ thành công “Phần Lan hóa” Châu Âu.
Nhưng sự đe dọa vừa trở lại từ phía Trung Cộng, quốc gia này đang cố gắng “Phần
Lan hóa” Tây Thái Bình Dương. Cách phát triển quân sự của một quốc gia mở ra
cánh cửa cho thấy ý định của nó, và Trung Cộng rõ ràng đang tìm kiếm để gây
hiệu quả tuần tự nhưng quyết định vào cán cân quân sự Mỹ-Trung. Mục đích của
Trung Cộng là ngăn chận Mỹ trong việc bảo vệ các quyền lợi lâu dài trong khu
vực – và để lôi kéo các đồng minh dân chủ của Mỹ vào quỹ đạo của nó.”
Trong chính luận Tranh chấp Mỹ-Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước trên
talawas hơn bốn năm trước, người viết cũng có bàn tổng quát về trường hợp các
quốc gia độn như Thổ Nhĩ Lỳ và Phần Lan. Để có thể tồn tại trong thời kỳ Chiến
tranh Lạnh các nước này đã phải áp dụng nhiều chiến lược đối ngoại và đối nội
khác nhau. Trong lúc Thổ Nhĩ Kỳ chủ trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về
phía Tây phương, Phần Lan chủ trương các chính sách đối ngoại và đối nội nhượng
bộ Liên Xô. Người viết cũng đã phân tích chọn lựa của Thổ Nhĩ Kỳ trong chính
luận Hiểmhọa Trung Cộng và bài học Thổ Nhĩ Kỳ cách đây hai năm và lần này bàn
đến trường hợp Phần Lan. Với chủ trương bành trướng Nga Hoàng của Vladimir
Putin và ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán của Tập Cận Bình đang cháy
rộng, khái niệm “Phần Lan hóa” lại lần nữa được nhắc nhở khá nhiều: “Phần Lan
hóa” Ukraine, “Phần Lan hóa” Đài Loan và cả khả năng “Phần Lan hóa” Việt Nam.
Trước khi bàn đến việc liệu Việt Nam có thể sẽ bị “Phần Lan hóa” với sự thỏa
thuận ngầm của Mỹ như David Brown phân tích hay thực tế đã bị “Phần Lan hóa”
sau mật ước Thành Đô, cần tìm hiểu các điều kiện địa lý chính trị, lịch sử và
quốc phòng của Phần Lan trong quan hệ với Liên Xô trước và sau Thế chiến thứ
hai cũng như sự ra đời của khái niệm này.
“Phần Lan hóa” là gì?
“Phần Lan hóa” (Finlandization) có nghĩa “để trở nên Phần Lan” là một khái niệm
chính trị để chỉ ảnh hưởng của một cường quốc trên các chính sách đối nội, đối
ngoại và quốc phòng của một quốc gia láng giềng nhỏ, bị cô lập, không phải là
thành viên của một liên minh quân sự và không nhận được sự bảo vệ của các cường
quốc. Khái niệm vẫn còn nhiều tranh cãi, mang nặng cảm tính này bắt nguồn từ
chính sách của chính phủ Phần Lan trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh từ 1947 đến
1990 để đáp ứng với thực tế chính trị và bảo vệ được chủ quyền đất nước, hay
vắn tắt là để tồn tại.
Phần Lan trước Thế chiến thứ hai
Năm 2013 dân số Phần Lan có 5.5 triệu, tuy nhiên trong giai đoạn “Phần Lan hóa”
trong những năm 1940 quốc gia này chỉ có khoảng 4 triệu dân, đa số sống ở các
khu vực miền nam, nhiều nhất tại thủ đô Helsinki và vùng phụ cận. Vì là một
nước quá nhỏ chia sẻ biên giới với các nước lớn nên Phần Lan cũng gặp nhiều lận
đận. Suốt 600 năm, Phần Lan bị Thụy Điển đô hộ. Các viên chức Thụy Điển được cử
đến cai trị Phần Lan. Dù đương đầu với hiểm họa bị đồng hóa, Phần Lan vẫn giữ
được bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tiếng nói riêng. Khi phong trào cải cách tôn
giáo của Martin Luther lan rộng đến Thụy Điển và Phần Lan, Tân Ước được dịch
sang tiếng Phần Lan và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của
người dân. Sau chiến tranh giữa Nga và Thụy Điển vào cuối thế kỷ 17, Nga chiếm
Phần Lan. Năm 1912, vua Nga, Alexander I nâng cấp Phần Lan từ hàng tự trị lên
cấp quốc gia đặt thủ đô tại Helsinki. Cũng vào thời điểm đó tinh thần quốc gia
Phần Lan do Tiến sĩ Johan Vilhelm Snellman nuôi dưỡng, bắt đầu phát triển mạnh.
Để chống lại chính sách đồng hóa của Nga Hoàng, Johan Vilhelm Snellman kêu gọi
người dân Phần Lan tuyệt đối không dùng tiếng Nga. Cách Mạng CS Nga 1917 bùng
nổ, Phần Lan tuyên bố độc lập. Tuy nhiên bị ảnh hưởng chính trị Nga, cánh tả
trong chính phủ Phần Lan rất mạnh và thực hiện một cuộc đảo chánh. Quân chính
phủ do tướng Gustaf Mannerheim chỉ huy phản công và đánh bại quân phiến loạn.
Phần Lan chính thức trở thành nước Cộng Hòa năm 1919 với K.J. Ståhlberg là tổng
thống đầu tiên. Biên giới giữa Nga và Phần Lan được công nhận theo hiệp ước
biên giới Tartu ký kết năm 1920. Quan hệ giữa Phần Lan và Liên Xô rất căng
thẳng, và quan hệ giữa Phần Lan và Đức cũng không tốt đẹp gì hơn. Tháng Tám
1939, Hitler và Stalin ký thỏa hiệp không xâm phạm nhau trong đó có điều khoản
Hitler đồng ý nhường Phần Lan cho Stalin. Khi Phần Lan từ chối việc cho phép
Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Phần Lan, Stalin tấn công Phần
Lan vào tháng 11 năm 1939. Chiến tranh Mùa Đông (Winter War) bùng nỗ. Tuy Phần
Lan thua nhưng đã gây thiệt hại trầm trọng cho phía Liên Xô. Sau Chiến tranh
Mùa Đông (1939) là Chiến tranh Tiếp Tục (Continuation War) (1941-1944). Trong
thời gian này Phần Lan đứng về phía Đức và đem quân tấn công Liên Xô để chiếm
lại các phần đất bị mất trong Chiến tranh Mùa Đông và nhiều phần đất khác của Liên
Xô. Chính Anh Quốc cũng đã tuyên chiến với Phần Lan năm 1941. Năm 1944, Phần
Lan ký hiệp ước đình chiến với Liên Xô.
Phần Lan sau Thế chiến thứ hai
Tại hội nghị Paris 1946, Đồng Minh ân xá cho Phần Lan và các nước đã đứng về
phía phe Trục như Romania, Bulgaria, Hungary và cho phép các nước này trở thành
hội viên Liên Hiệp Quốc. Phần Lan và Liên Xô ký các hiệp ước hòa bình lần nữa
vào những năm 1947 và 1948. Trong giai đoạn này Phần Lan quá yếu về khả năng
quân sự so với Liên Xô nên đã buộc phải nhường vùng đất phía nam cho Liên Xô.
Đứng trước sự phân cực đang hình thành trong sinh hoạt chính trị thế giới, Phần
Lan đối diện với một thực tế chính trị thế giới hoàn toàn bất lợi. Đức Quốc Xã,
đối trọng với Liên Xô sụp đổ, không có đồng minh quân sự, bị cô lập về địa lý
chính trị, các quốc gia trong vùng Đông Âu lần lượt trở thành chư hầu CS của
Liên Xô, các quốc gia vùng Baltic như Estonia, Latvia, Lithuania đều bị sáp
nhập hẳn vào Liên Xô. Ưu tiên hàng đầu của chính phủ Phần Lan, vì thế, bằng mọi
giá để khỏi bị trở thành một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” trong Liên Bang Xô
Viết. Quá sợ Liên Xô nuốt sống như trường hợp các nước vùng Balkan, Phần Lan
lấy lòng Liên Xô bằng cách từ chối viện trợ Mỹ trong kế hoạch viện trợ kinh tế
Marshall. Tuy vậy, Phần Lan ngấm ngầm thiết lập quan hệ kinh tế với Anh, Mỹ và
các chính phủ Anh, Mỹ cũng tìm cách yểm trợ Phần Lan để hy vọng nuôi dưỡng chế
độ dân chủ non trẻ tại quốc gia nhỏ ở Bắc Âu này. Chính sách “Phần Lan hóa” ra
đời.
Nội dung của “Phần Lan hóa ”:
- Về đối ngoại. Phần Lan theo đuổi một chính sách đối ngoại rất mềm dẽo, nhân
nhượng, không làm mất lòng Liên Xô, trung lập. Liên Xô trong thực tế không xem
Phần Lan như là một nước Trung Lập đúng nghĩa mà luôn xem quốc gia này phụ
thuộc vào các chính sách đối ngoại phát xuất từ điện Kremlin. Chẳng hạn, khi
đại sứ Phần Lan Max Jakobson được đề cử vào chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc,
Liên Xô chẳng những không ủng hộ mà còn dùng quyền phủ quyết để bác bỏ vì không
muốn thấy một chính khách Phần Lan đóng vai trò quan trọng trong tổ chức chính
trị thế giới.
- Về đối nội. Loại trừ các thành phần lãnh đạo quốc gia có khuynh hướng chống
Liên Xô và ủng hộ các thành phần thân Liên Xô. Theo tài liệu của CIA, Liên Xô
duy trì mối quan hệ mật thiết với các chính khách thân Liên Xô đứng đầu là Tổng
thống Juho Kusti Paasikivi (1870-1956) và sau đó là Tổng thống Urho Kekkonen
(1900-1986). Liên Xô có quyền phủ quyết các chính sách của Phần Lan và can dự
vào nội bộ Phần Lan qua trung gian đảng CS Phần Lan, Liên Đoàn Dân Chủ Nhân
Dân, Quốc Hội Phần Lan với đa số thuộc cánh tả.
- Về văn hóa giáo dục. Để vừa lòng Liên Xô, Phần Lan áp dụng chính sách tự kiểm
duyệt, tự kiểm soát và thân Liên Xô. Chính phủ Phần Lan ngăn chận các phương
tiện truyền thông có cái nhìn tiêu cực về Liên Xô. Trên 1700 cuốn sách có nội
dung chống Liên Xô trước đó bị xếp vào thể loại “sách bị cấm”. Các phim ảnh
không có lợi cho Liên Xô như The Manchurian Candidate, Day in the Life of Ivan
Denisovich v.v. đều không được phép chiếu.
- Về quốc phòng. Hiệp ước Hữu Nghị Hợp Tác Phần Lan-Liên Xô 1948 (Finno-Soviet
Pact of Friendship, Cooperation and Mutual Assistance) quy định Phần Lan phải
có trách nhiệm chống lại các lực lượng thù địch của Liên Xô khi các lực lượng
này tấn công Liên Xô ngang qua ngã Phần Lan và nếu cần sẽ kêu gọi sự giúp đở
quân sự của Liên Xô. Phần Lan không được liên minh quân sự với một quốc gia thứ
ba. Điều này do Liên Xô đặt ra để giới hạn Phần Lan gia nhập NATO giống như
trường hợp Đan Mạch và Na Uy. Trước đó, trong hiệp ước ký kết giữa hai nước,
Phần Lan đã nhường 10 phần trăm lãnh thổ cho Liên Xô.
Nhắc đến “Phần Lan hóa” không thể bỏ qua vai trò của Tổng thống Phần Lan Urho
Kekkonen, người lèo lái chính sách này trong suốt 26 năm làm tổng thống. Những
người phê bình Urho Kekkonen cho rằng ông ta là con cờ của Liên Xô trong khi
những người ủng hộ xem ông như là một trong những anh hùng của Phần Lan vì đã
bảo vệ được chủ quyền Phần Lan trong một hoàn cảnh chính trị thế giới vô cùng
khó khăn.
Công tâm mà nói, trong suốt dòng lịch sử, lãnh thổ Phần Lan là bãi chiến trường
cho các tham vọng bành trướng của Thụy Điển và sau đó là Nga Hoàng. Sau Thế
chiến thứ hai, hầu hết các quốc gia vùng Baltic và Balkan đề nằm trong quỹ đạo
Liên Bang Sô Viết. Lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ của quốc gia này đều bị xóa bỏ. Ý
thức được điều đó, mục tiêu hàng đầu của Kekkonen là bảo vệ chủ quyền Phần Lan,
bảo vệ nền Cộng Hòa Phần Lan bằng mọi giá, không thể để Phần Lan trở thành một
xứ tự trị như thời Nga Hoàng hay một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” của Stalin.
Mặc dù nhân nhượng Liên Xô rất nhiều trong các lãnh vực chính trị, quốc phòng
Phần Lan cũng có lợi về kinh tế vì Liên Xô là quốc gia nhập cảng lớn nhất sản
phẩm của Phần Lan. Sự sụp đổ của Liên Xô đã gây ra những suy thoái kinh tế trầm
trọng tại Phần Lan. Sau giai đoạn phục hồi, Phần Lan đã phát triển một cách
vượt bực. Ngày nay Phần Lan hội nhập cao vào sự nền kinh tế thế giới và là một
trong những quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới.
Trở lại với quan hệ Trung Cộng và CS Việt Nam trong cái nhìn so sánh giữa Liên
Xô và Phần Lan.
Trung Cộng sau Thiên An Môn
Chính sách đối ngoại của Trung Cộng trong thời gian 1990 nhằm mục đích thoát
khỏi sự cô lập quốc tế và ổn định chính trị nội bộ sau biến cố Thiên An Môn.
Những thành tựu kinh tế của chính sách bốn hiện đại hóa từ đầu thập niên 1980 đã
đạt một số thành tích đáng kể nhưng tất cả đều rất mong manh, yếu kém. Các
cường quốc dân chủ vẫn còn trừng phạt kinh tế sau khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh
tàn sát nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ tại Thiên An Môn đầu tháng
6, 1989.
Như hầu hết các quốc gia CS, kế hoạch chung của cả nước luôn chế ngự và đồng
thời duy trì tính cân đối của các chính sách đối ngoại cũng như đối nội trong
mỗi thời kỳ. Để thoát khỏi sự cô lập và phục hồi vị trí của Trung Cộng trong
bang giao quốc tế , Đặng Tiểu Bình theo đuổi chính sách đối ngoại mềm dẽo trong
đàm phán biên giới với hàng loạt các nước lân bang trong đó có Việt Nam. Chính
sách của ho Đặng được gọi là chính sách 20 nét chữ “bình tĩnh quan sát, giữ
vững trận địa, bình tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời” (lengjing guancha,
chenzhuo yingfu, wenzhu zhenjiao, taoguang yanghui, yousuo zuowei).
Sự sụp đổ của hệ thống Liên Xô làm Trung Cộng không còn lo ngại vòng vây Liên
Xô từ hướng Việt Nam nhưng lại có mối lo mới nguy hiểm và hùng mạnh hơn nhiều,
đó là Mỹ. Như người viết đã trình bày trong các bài trước, thời điểm 1990 đối
tượng cạnh tranh của Trung Cộng là Mỹ và Nhật chứ không phải Liên Xô hay chư
hầu của nó là CSVN và mục tiêu bành trướng của họ Đặng không chỉ giới hạn ở các
cù lao trên biển, vài ngọn núi đất ở Hà Giang mà cả Thái Bình Dương. Và để giới
hạn sự đe dọa của Mỹ, Trung Cộng đã làm hòa với CSVN. Hai bên đã mở các cuộc
đàm phán vào năm 1991 và đạt đến thỏa hiệp vào năm 1993 sau mật ước Thành Đô.
Việt Nam sau Liên Xô
Sau khi hệ thống CS tại châu Âu sụp đổ, nền kinh tế của các nước CS còn lại của
khối COMECON trong đó có Lào, Cu Ba và CSVN trở thành đàn gà mất mẹ. Trong bài
bình luận nhân dịp kỷ niệm 20 năm bức tường Bá Linh đổ, tạp chíThe Economist
nhận xét chung rằng khi chế độ thực dân ra đi, các nước cựu thuộc địa ít ra còn
hưởng được các phương pháp quản trị, hệ thống tư pháp và nhiều trường hợp cả
ngôn ngữ nhưng chế độ CS ra đi không để lại gì ngoài nghèo đói, ngục tù và lạc
hậu.
Số phận của đảng CSVN như chỉ mành treo chuông. Trong giờ phút sinh tử đó, lãnh
đạo CSVN xem dấu hiệu hòa hoãn của Đặng Tiểu Bình như chiếc phao giữa biển. Họ
vui mừng bám lấy. Dĩ nhiên, với bản chất thâm độc, đầu óc tính toán của lãnh
đạo Trung Cộng, món lễ vật của đàn em CSVN dâng lên trong ngày quy phục thiên
triều lần nữa phải là một lễ vật đắt giá. Món nợ máu xương từ năm 1979 trở về
trước hẳn được Đặng Tiểu Bình đòi cả vốn lẫn lời.
Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên diễn ra
trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ
Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lý Bằng thực
chất là lễ cam kết một loại “công hàm” khác, trầm trọng hơn nhiều so với “công
hàm Phạm Văn Đồng”. Chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu
Ngư Đài Bắc Kinh, Giang Trạch Dân tuyên bố “Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung
Quốc và Việt Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai
nước do những người lãnh đạo thuộc thế hệ lão thành xây dựng nên.” Họ Giang
muốn nhắc nhở lãnh đạo CSVN về thời kỳ mà đảng CSVN thở bằng bình oxyen Trung
Cộng trong các thập niên 1950, 1960.
Trung Cộng muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan và nhiều hơn nữa:
- Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, Việt Nam phải “trung lập” trên danh
nghĩa. Phần Lan luôn tuyên bố trung lập và Liên Xô ủng hộ vị trí trung lập của
Phần Lan nhưng thực chất có quyền phủ quyết hầu hết các chính sách đối ngoại
của Phần Lan. CSVN cũng thế. Họ luôn tuyên bố “quan hệ hợp tác bình đẳng cùng
có lợi” với mọi quốc gia trên thế giới nhưng thực chất chỉ “hợp tác” với sự
đồng ý của Trung Cộng. Bất cứ khi nào có dấu hiệu làm trái ý, Trung Cộng sẽ
dùng mọi biện pháp hèn hạ nhất để trừng phạt như trường hợp giàn khoan HD981
vừa qua, bất chấp dư luận thế giới khinh khi.
- Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, các chính sách an ninh quốc phòng của
Việt Nam không được đi ngược với chính sách quốc phòng của Trung Cộng, không
được độc lập trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. Để thỏa
mãn Trung Cộng, Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không” tự sát:
(1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của
bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và
không dựa vào nước này để chống nước kia. Các điều khoản này tương tự các điều
khoản của hiệp ước mà Phần Lan phải ký với Liên Xô năm 1948.
- Giống như Liên Xô đã cướp đất của Phần Lan, CSVN đã chấp nhận vị trí đặc
quyền, đặc lợi của Trung Cộng trong Biển Đông. Như đã viết, khi thỏa hiệp bán
nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung
Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải
lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng
Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác
dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác
dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ
lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành
chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
- Giống như Liên Xô đã áp lực với lãnh đạo Phần Lan, Việt Nam cũng thực hiện
các chính sách tự kiểm duyệt các tin tức gây mất lòng Trung Cộng, giới hạn các
phim ảnh, sách báo có nội dung tiêu cực về chế độ CS tại Trung Quốc, ngăn chận
mọi ý kiến, phản ứng dù rất ôn hòa của người dân trước các hành động gây hấn,
xâm lược lộ liễu của Trung Cộng. Tháng Sáu vừa qua, các báo VnExpress, Thanh
Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục đã phải đồng loạt lấy xuống các hình
ảnh và tin tức liên quan đến ngày kỷ niệm Tàn Sát Thiên An Môn. TS Nguyễn Quang
A, một trong những thành viên chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự phát biểu với
RFA:“Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn
rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để
họ làm như vậy.”
- Bên cạnh các điểm giống nhau nêu trên, một điểm khác biệt có tính quyết định
đối với tương lai của dân tộc Việt Nam: Trung Cộng quyết tâm bảo vệ đảng CSVN.
Làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay chỉ còn năm
đảng cầm quyền mang nhãn hiệu búa liềm. Nắm giữ Việt Nam về mặt lý luận tư
tưởng không chỉ để bảo vệ cơ chế mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường
hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Và do đó, bị “Phần Lan hóa”
trong quỹ đạo Trung Cộng cũng có nghĩa ngày nào Trung Cộng còn do đảng CS cai
trị ngày đó nhân dân Việt Nam lại cũng sẽ tiếp tục chịu đựng dưới ách chủ nghĩa
độc tài toàn trị Lê Nin không có Mác. Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen phải
khuất phục Liên Xô chỉ vì để bảo vệ chế độ cộng hòa và chủ quyền đất nước, lãnh
đạo CSVN bám vào chiếc phao Trung Cộng chỉ vì quyền lực và quyền lợi riêng của
đảng CS.
Những phân tích trên cho thấy có khả năng cao Việt Nam đã bị “Phần Lan hóa” qua
mật ước Thành Đô. Và Việt Nam, như một dân tộc, chỉ có thể tự thoát khỏi quỹ
đạo Trung Cộng tức tránh khỏi nạn bị“Phần Lan hóa” bằng (1) dân chủ trước Trung
Cộng, (2) đoàn kết dân tộc để vượt thoát và thăng tiến, (3) chủ động chiến lược
hóa vị trí quốc gia trong tranh chấp Thái Bình Dương, (4) sát cánh với láng
giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy như đã trình bày trong
chính luận Để thắng được Trung Cộng.
Tham khảo: - “Finlandization” in Action: Helsinki’s Experience with Moscow”,
Directorate of Intelligence Report. CIA // - China’s ‘Finlandization’ Strategy
in the Pacific , Adrew F. Krepinevich, The Wall Street Journal Sept 11,2010 //-
Vietnam Faces ‘Finlandization’ from China, David Brown, AsiaSentinel, May 22
2014 // - Finland, a country study, Library of Congress , Eric Solsten and
Sandra W. Meditz, December 1988 // - THE POWER OF C ENTRAL AND EASTERN EUROP
AFTER1945 Mart Laar // - China’s Foreign Relations After Tiananmen: Challenges
for the U.S. Robert S. Ross, Allen S. Whiting and Harry Harding, The NBR
Analysis, 1990 // - Regime Insecurity and International Cooperation, M. Taylor
Fravel, International Security, Vol. 30, No. 2 (Fall 2005), pp. 46–83 © by the
President and Fellows of Harvard College // - Wikipedia.org The
Molotov–Ribbentrop Pact // - Wikipedia.org on Finland // - Korean Reunification
Would Cast Off China’s Shadow , Mark P. Barry, World Policy.
(4) Tưởng Năng Tiến: Những Trận Chiến Bất
Nhân
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ xuống dưới hầm
tai vạ ( Nguyễn Trãi )
“Tháng 7 vừa qua, trong cuộc họp của Hội đồng Bảo an diễn ra ở New York, Ngoại
trưởng Hà Lan, ông Frans Timmermans đã có bài phát biểu vô cùng xúc động về vụ
việc chiếc máy bay MH17 gặp nạn tại miền Đông Ukraine, khiến toàn bộ 298 người
thiệt mạng.
Trong suốt bài phát biểu của mình, khóe mắt ông Frans Timmermans luôn chực trào
nước mắt khi bày tỏ sự choáng váng, bàng hoàng trước quy trình xử lý thi thể
các nạn nhân cũng như hàng loạt những thông tin nhiễu loạn xung quanh vụ MH17.”
Những dòng chữ trên được trích dẫn từ trang Dân Luận, đọc được vào
hôm 27 tháng 7 năm 2014, cùng với lời dẫn nhập (hay nói chính xác hơn
là nỗi băn khoăn) của ban Biên tập: “Bài phát biểu xúc động của vị chính
khách một nước dân chủ phương tây, thể hiện rõ rằng đất nước của họ luôn quan
ngại, lo lắng xót xa cho tính mạng người dân của mình. Không giống như tại Việt
Nam, tính mạng của người dân không được quan tâm, đảm bảo, luôn bị đe dọa ở
khắp nơi ngay cả ở những nơi công quyền, ví dụ như đồn công an. Chúng tôi tự
hỏi, liệu các vị nguyên thủ quốc gia Việt Nam sẽ như thế nào nếu có xảy ra tình
huống tương tự?”
Câu trả lời cho nghi vấn thượng dẫn, thực ra, đã có sẵn (cũng trên
trang Dân Luận) từ hai ngày trước – hôm 25 tháng 7 năm 2014 – qua
một đoạn văn ngắn của tác giả Nguyệt Quỳnh: Từ những phát biểu của ông
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như: “ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền”
đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền
lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân
Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối;
không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ
phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những “cột bia xi măng” vô
tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ
coi ngư dân như những “cột gỗ mục” vô giá trị. Và KHỐN KIẾP không kém là khi có
ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng
khen kế tiếp cho những “cột mốc sống dở chết dở” ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm
các “cột mốc còn sống” khác ra khơi trở lại.
Những cột mốc sống, cột bia xi măng, cột gỗ mục … ở biển Đông – hôm
nay – khiến tôi nhớ đến “Những Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo,” trong
cuộc chiến vừa qua: “Sinh ra trong một gia đình nghèo có bảy chị em. Là con
cả, ngày ngày Ðinh Thị Thu Hiệp phải lo bắt tép, mò ốc đỡ đần mẹ cha nuôi các
em khôn lớn. Ðến tuổi thanh niên, chị theo phong trào ‘Ba sẵn sàng’ xung phong
lên đường, nhưng địa phương không duyệt vì thân hình quá nhỏ. Không còn cách
nào khác, chị đã viết đơn vào trận tuyến bằng máu với tất cả tình cảm thống
thiết để được kết nạp vào đội hình TNXP và được phân công về làm nhiệm vụ ở đèo
Ðá Ðẽo. Ngày đó, đèo Ðá Ðẽo được xem như lằn ranh giữa sự sống và cái chết, là
yết hầu của tuyến chi viện chiến lược 15A vào Nam. Từ năm 1967, không quân Mỹ
đã thực hiện chiến dịch 97 ngày đêm xóa trắng, vùi lấp đèo Ðá Ðẽo, Ðinh Thị Thu
Hiệp đã không ngần ngại bám sát mặt đường từng ngày, từng giờ, đếm từng quả bom
rơi, vác từng thùng đạn chạy băng qua bãi bom nổ chậm. Chỉ nặng chưa đầy 40 kg
nhưng lúc đó vác trên mình những kiện hàng, thùng đạn vượt bãi bom dài hơn cây
số chạy băng đến điểm tập kết an toàn.
Cuối năm 1967, khúc cua 516+300 mái phía tây đèo Ðá Ðẽo thường xuyên trúng bom
nổ chậm, nhiều người không có kinh nghiệm tiếp cận bom đã thiệt mạng. Cấp trên
giao Ðinh Thị Thu Hiệp chốt giữ trọng điểm nóng đó nhằm bảo đảm thông tuyến
nhanh nhất cho xe ra tiền tuyến.
Ngày đầu tiên, một quả bom nổ chậm rơi đúng tim đường. Lập tức chị yêu cầu mọi
người tản ra xa, một mình chị vào kích nổ quả bom. Khi công việc hoàn thành,
vừa trở ra khoảng 150 m thì bom nổ, chị bị sức ép khiến một tai bị điếc. Một
lần khác, một đoàn xe chở hàng ra mặt trận bị ứ lại do vướng bãi bom ở chân đèo
Ðá Ðẽo. Mọi người chưa biết làm sao thông tuyến, trong khi tiếng gọi chiến
trường đang hết sức cần kíp thì chị Hiệp đã nhanh trí, quyết định biến mình
thành cọc tiêu sống đưa đoàn xe 20 chiếc vượt qua bãi bom an toàn…
Sau những thành tích trong chiến tranh, chị vinh dự được Nhà nước phong tặng
danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vào năm 1972. Hòa bình, chị trở về sống bình
dị với ruộng nương, xóm làng…” (Hương Giang. “Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá
Đẽo.” Nhân Dân 7 July 2010).
Có vô số những chị Đinh Thu Hiệp (khác) đã vùi thây trong bom đạn,
hoặc không bao giờ còn có thể “trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm
làng …” mà nhà báo Hương Giang không biết hay không … dám biết.
Các chị bị lãng quên, và chỉ được nhắc đến – với rất nhiều xót sa,
cùng với sự trân trọng – bởi một người ngoại cuộc (*) bằng một thiên
tiểu luận [Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong
Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975)] đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và
đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas. Chúng tôi xin phép ghi lại
vài trích đoạn – ngăn ngắn – để rộng đường dư luận, cùng với ước
mong được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả, cùng dịch
giả:
- Đối với những thiếu niên-lính này (thậm chí trong một vài trường hợp là trẻ
em-lính), vũ khí chỉ là cuốc chim đơn giản, xẻng lớn và hành trang trí thức ít
ỏi mang theo người chỉ là vài năm học sơ cấp ở trường. Họ gặp nhau và chỉ trong
mấy ngày là bị đẩy ra tuyến lửa. Không có kiến thức quân sự, tất cả họ đều được
huấn luyện tại chỗ như câu khẩu hiệu “Khắc làm, khắc biết” đã tóm ý. Đối với
những học sinh nữ ở các thành phố chẳng biết gì ngoài việc cầm bút, tham gia
các công việc lặt vặt trong gia đình, hay còn được mẹ nuông chiều và ban đêm
vẫn còn sợ ma thì sự hụt hẫng của họ thật dữ dội. Sau khi được tập hợp và biên
chế thành đơn vị, những TNXP được nhanh chóng gởi ra tuyến lửa.
- Giống như các đồng nghiệp ở Liên Xô, phụ nữ Việt Nam không những không bị cấm
ra mặt trận, mà còn ở ngay chính giữa mặt trận. Các cô gái TNXP trực tiếp tham
gia chiến đấu, đặc biệt là trên đường mòn HCM, nơi có sự hoà nhập nhất với quân
chủ lực, và với những người trong đội TNXP Giải phóng miền Nam thì chiến đấu là
nhiệm vụ chính thức. Như chúng ta thấy, trong phần lớn thời gian, ranh giới
giữa bộ đội nơi tiền tuyến và các lực lượng hậu cần không hề tồn tại. Việc lực
lượng hậu cần cũng hứng chịu lửa đạn là chuyện bình thường của mọi cuộc chiến,
nhưng trường hợp Việt Nam trở nên đặc biệt do một số lý do: độ tuổi tuyển mộ
quá trẻ, họ gần như hoàn toàn không được chuẩn bị chút nào, và cách thức quản
lý thuần chính trị và quân sự được áp dụng với họ. Sĩ quan trong Quân đội Nhân
dân Việt Nam và cựu cán bộ TNXP bị ảnh hưởng nặng nề bởi những đau đớn khủng
khiếp thường nhật của các cô gái làm việc cùng họ, hoặc dưới quyền họ, phải
chịu đựng. Nhưng tất cả bị tấm màn im lặng phủ kiến, bởi người ta muốn đây phải
là cuộc chiến tranh nhân dân. Sau “cuộc chiến tranh nhân dân” kể trên – nếu
sống sót – những cành lan trong rừng cháy, những đoá hoa nhầu nát,
hay những quả chanh khô (theo như cách nói của đời thường) sẽ trở
thành những con số không tròn trĩnh: không chồng, không con, không nhà,
và không chế độ! Và cái lọai “chiến tranh nhân dân” (bất nhân) này
vẫn đang tiếp diễn ở Việt Nam với những ngư dân làm cột mốc sống
giữa biển khơi, thay cho những thanh niên xung phong (như cột tiêu sống)
trên mọi nẻo đường đầy dẫy bom đạn – giữa thế kỷ trước. Và ai
mà “lỡ dại” lên tiếng than phiền về thái độ vô trách nhiệm của
những kẻ cầm quyền thì thế nào cũng bị nhốt tù, như trường hợp
của nhà báo Tạ Phong Tần: Đại tá Nguyễn Trọng Huyền- Chỉ huy trưởng Bộ chỉ
huy BĐBP tỉnh Phú Yên cho hay: “Thời gian vừa qua, đặc biệt hơn 10 ngày nay,
tàu cá TQ xâm phạm nhiều lần trong vùng biển nước ta. Theo thông tin ngư dân
báo về, trung bình mỗi ngày vùng biển ngoài khơi từ Đà Nẵng đến quần đảo Trường
Sa có từ 120 đến 150, cá biệt có những ngày lên đến hơn 200 tàu cá TQ khai thác
trong vùng biển nước ta”. Cái đau của người Việt Nam là thông tin này do “ngư
dân báo về” chớ không phải do Hải quân hay Cảnh sát biển phát hiện. Câu “ngư
dân báo về” khiến người đọc hình dung ra bối cảnh lúc đó ngư dân với những
chiếc tàu nhỏ bé trang bị thô sơ đang ở ngoài biển xa đối mặt với tàu to đùng
tối tân của Trung Quốc, còn lực lượng có chức năng bảo vệ ngư trường, ngư dân và
lãnh hải thì ngồi trong bờ… chờ nghe báo cáo.
Tôi không rõ những vị lãnh đạo đất nước Việt Nam hiện nay như qúi ông
Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, ông Trung Tướng Thứ Trưởng Bộ Công An Tô
Lâm , hay ông Đại Tá Nguyễn Trọng Huyền có bị vấn đề về não
bộ hoặc trí nhớ hay không nhưng tôi biết chắc (chắn) điều này: cái
thời mà qúi vị huyễn hoặc và lừa mị để đẩy dân Việt vào chỗ chết
(rồi thản nhiên phủi tay) đã qua rồi. Không ai có thể lường gạt mọi
người mãi mãi.
(*) Chú thích: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung
tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại
Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại
Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về
những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc
phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được
thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển
hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines,
Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William
J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông
dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên
Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.
(5) Lê Phương: Chồng Khánh Ly: 'Lấy Khánh Ly, tôi
coi như mình là người đã chết'
Ông Nguyễn Hoàng Đoan đã chia sẻ với Báo điện tử Giáo
dục Việt Nam về cuộc sống hạnh phúc với danh ca Khánh Ly trong suốt
39 năm qua.
Cưới Khánh Ly chỉ tiêu hết 100 đô la
- Duyên phận đưa ông đến với Khánh Ly và trở thành người bạn tri kỉ của nữ danh
ca này như thế nào, ông có thể chia sẻ được không?
Tôi biết Khánh Ly từ hồi còn ở Việt Nam, nhưng sau này gặp gỡ, thân thiết với
nhau hơn là ở bên Mỹ.
Lúc mới qua Mỹ, Khánh Ly sống một mình với 2 đứa con ở bang Los Angeles, một
nơi rất nghèo trong khi đó tôi lại là người làm ra tiền. Khi đến thăm Khánh Ly,
cô nấu đồ Việt Nam cho tôi ăn làm tôi sung sướng lắm vì suốt 6 tháng trời, tôi
toàn ăn hăm-bơ-gơ.
Liên tục được Khánh Ly nấu cho ăn suốt 1 tháng nên tôi đề nghị với cô ấy kết
hôn với nhau. Khánh Ly nói rằng, cho cô ấy thời gian 3 tháng để suy nghĩ và
cuối cùng cũng đồng ý.
Chúng tôi đến với nhau như vậy đó, hai người lấy nhau đều không yêu nhau.
Trước đó, Khánh Ly có một người yêu khác, tôi cũng có một người yêu khác
nhưng khi sống cùng thì tình cảm bắt đầu nảy nở và tới bây giờ đã là 39 năm
rồi.
Đám cưới của chúng tôi cũng chỉ tiêu hết có 100 đô la làm bữa chả giò, mời 12
người làm việc chung với tôi đến dự. Tôi bỏ ra 80 đồng mua 2 cái nhẫn cưới vẫn
đeo tới tận bây giờ.
- Hai người không yêu nhau nhưng lại quyết định sống chung với nhau, có
giây phút nào, ông bà hối hận vì quyết định này không?
Chúng tôi không có hối hận nhưng cũng có nhiều lúc không hòa thuận với
nhau. Tuy nhiên, khi có chung với nhau một đứa con thì tất cả mọi thứ đã thay
đổi và trở thành một mái ấm gia đình hạnh phúc. Cho tới giờ này, chúng
tôi đã sống với nhau gần 40 năm nhưng vẫn luôn coi nhau là bạn và tôn
trọng lẫn nhau.
Trân trọng người yêu, người chồng trước đó của Khánh Ly
- Khán giả luôn nhắc đến Khánh Ly là người tình một thời của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn, ông có ghen với mối tình này của vợ mình không?
Khi ở Việt Nam, tôi chơi với Trịnh Công Sơn và cũng biết tiếng hát của Khánh
Ly rất đặc biệt nhưng lúc đó, tôi không thích ca sĩ nên không để ý
lắm.
Nhưng tôi không bao giờ ghen tỵ với bất cứ điều gì của Khánh Ly. Những người
chồng, người yêu trước đó của Khánh Ly đều là những người tôi trân
trọng. Nói chung, con người không có quá khứ thì buồn chán lắm.
Vì yêu Khánh Ly nên tôi yêu cả những đứa con của cô ấy, bây giờ chúng nó lớn
hết rồi, có con rồi, chúng có nói với Khánh Ly và với tôi rằng, chúng chỉ
có mình tôi là bố thôi.
- Nhưng làm thế nào ông có thể dung hòa và đồng điệu tâm hồn với một
nghệ sĩ danh tiếng như Khánh Ly?
Tôi làm báo nên tôi nghĩ mình cũng có dòng máu nghệ sĩ. Khi tôi lấy Khánh Ly,
tôi đã dứt khoát bỏ nghề, tự 'chặt' cái tay của mình để về làm việc cho
vợ. Tôi biên tập âm nhạc, quay video... đó cũng là một khám phá thú
vị và tôi say mê chuyện đó. Thậm chí, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn cả khi làm
báo.
Tôi còn nhớ năm 1997, khi Đài bên Nhật thực hiện phóng sự về cuộc
đời Khánh Ly, họ phỏng vấn tôi thì tôi đã trả lời như thế này:
'Lấy Khánh Ly, tôi coi như mình là người đã chết rồi. Tôi chỉ đứng sau lưng
Khánh Ly thôi và việc của tôi là cố gắng làm sao để giữ gìn, để hỗ trợ cho
Khánh Ly đem tiếng hát của mình đi phục vụ đồng bào. Còn với tôi thì chẳng có
gì cả'.
'Cô ấy là người dễ dãi với tất cả mọi người, chưa bao giờ biết giận ai nhưng
đối với tôi, Khánh Ly rất khắt khe...'.
Không bao giờ thắc mắc về quá khứ của nhau
- Khánh Ly chia sẻ rằng, bà phải ăn uống như người tu hành vì ông bắt
giữ dáng, điều này có đúng không?
Bởi vì khán giả yêu quí Khánh Ly nhiều quá thì mình phải trả lại cho sự yêu
mến điều gì đó. Tôi nghĩ không có gì trong đời sống này mà mình được tất, mình
muốn được cái gì đó thì mình phải hi sinh. Tôi nói với Khánh Ly rằng, những
điều tôi khắt khe với cô ấy không phải là cho tôi mà là cho những người
quí mến cô ấy.
- Mặc dù gọi chồng là 'cai ngục' nhưng khi nói về ông, Khánh Ly luôn
tự hào và ca ngợi ông...hình như Khánh Ly rất biết nịnh chồng?
Cô ấy là người dễ dãi với tất cả mọi người, chưa bao giờ biết giận ai nhưng
đối với tôi, Khánh Ly rất khắt khe. Cô ấy chỉ chuyên môn trách chồng, tôi
giống như là cái thùng để cô ấy dồn hết tất cả mọi thứ vào trong đó. Nhưng
tôi vẫn luôn cảm thấy hạnh phúc dù cô ấy có nói bất cứ điều gì.
- Suốt 39 năm sống chung từ không yêu đến gắn bó không thể xa rời, ông
bà làm thế nào để giữ được ngọn lửa yêu thương luôn cháy mãi như
vậy?
Rất nhiều đàn bà đã đi qua cuộc đời tôi nhưng chưa bao giờ tôi thấy ai độ
lượng, khoan dung và tốt đối với bạn bè, con cái như cô ấy cả. Dưới mắt tôi,
vợ mình chẳng có tật nào xấu và chúng tôi luôn coi nhau như những
người bạn, tôn trọng lẫn nhau. Có lẽ điều đó khiến chúng tôi có thể
chung sống hòa thuận và hạnh phúc bên nhau trong nhiều năm qua. Chúng
tôi không bao giờ thắc mắc về quá khứ của nhau. Thậm chí, bây giờ
những người yêu một thời của tôi và cô ấy còn trở thành bạn. Tôi
nghĩ muốn giữ được hạnh phúc thì mình phải có trái tim chân thành, nếu
có sự chân thành thì mọi gập ghềnh trong đời sống nó sẽ đi qua hết.
- Có người từng chia sẻ rằng, cuộc sống của vợ chồng Khánh Ly tại
Mỹ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Vậy ông bà đã vượt qua khó khăn đó như
thế nào?
Đời sống của một con người 'khi thì lên voi khi thì xuống đáy' là điều bình
thường. Chúng tôi cũng gặp khó khăn nhưng dù có lúc xuống tới đất đen, có
mất mát thì chúng tôi chưa bao giờ dằn vặt nhau hay gây gổ nhau vì chuyện đó.
Chúng tôi luôn ngồi lại và bảo nhau cùng làm và nhiều khi vì lòng thành nên
trời thương cho chúng tôi vượt qua được những giai đoạn như vậy. Bây giờ
thì chúng tôi không còn khó khăn nữa.
- Liên tục được về quê hương biểu diễn chắc hẳn Khánh Ly rất hạnh
phúc và ông chia sẻ niềm vui đó với vợ mình như thế nào?
Trong thời gian chúng tôi lấy nhau, Khánh Ly có nói rằng, chúng ta sẽ không
bao giờ trở về quê hương được nữa. Tôi bảo với cô ấy, có thể bây giờ như
vậy nhưng có lúc nào đó chắc chắn mình phải quay về cố hương, bởi vì con người
phải quay về nguồn cội. Dù mình có sống ở bất cứ đất nước nào đi chăng nữa thì
mình cũng chỉ là người Việt Nam. Chính vì thế mà gia đình tôi sống rất Việt Nam
không có bất cứ hình dáng Mỹ gì ở trong gia đình tôi cả. (Source: GDVN)
(6) Du Tử Lê: Đêm, nhớ trăng Sài Gòn
đêm về theo vết xe lăn
tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
tìm tôi đèn thắp hai hàng
lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
ngỡ hồn tu xứ mưa bay
tôi chiêng, trống gọi mỗi ngày mỗi xa
đêm về trên bánh xe qua
nhớ em Xa Lộ, nhớ nhà Hàng Xanh
nhớ em kim chỉ khíu tình
trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
nắng Trương Minh Giảng lá hè Tự Do
nhớ nghĩa trang : quê bạn bè
nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
đêm về trên vết xe lăn
tôi trăng viễn xứ ,sầu em bến nào ?
...........................................................................................................
Kính
NNS
__._,_.___
Posted by: Phung Tran