NHỮNG CA KHÚC HAY NHẤT CỦA
DIỄM LIÊN -2 [12 Ca Khúc] -TNP (Super HD Videos)
https://www.youtube.com/playli st?list=PLTOW-LJ7Z_dpFmKSTwMkU V_H3ZU3WcSOe
THE BEST OF DIEM LIEN
PLAYLIST
https://www.youtube.com/ playlist?list=PLTOW-LJ7Z_domy- OkAGlCfXK0BY_8M3QD
|
---------- Forwarded message
----------
From: Liennhu <l
Date: 2017-09-30 3:50 GMT-07:00
Subject: Fwd: Trần Đức Thảo và đêm hát cô đầu chui ở ATK
To: Dk Tonnu Mau Don <>, DK CC Dangngoc Lekhanh <>
Cc: Tran Nang Phung <t>
From: Liennhu <l
Date: 2017-09-30 3:50 GMT-07:00
Subject: Fwd: Trần Đức Thảo và đêm hát cô đầu chui ở ATK
To: Dk Tonnu Mau Don <>, DK CC Dangngoc Lekhanh <>
Cc: Tran Nang Phung <t>
Trần
Đức
Thảo và đêm hát cô đầu chui ở ATK
Tác giả: theo Blog Huu Nguyen
.KD: Hóa ra, 26/9, tròn
100 năm ngày sinh của Triết gia Trần Đức Thảo, người trí thức vĩ đại và cả…
ngây thơ. Bạn bè gửi cho bài viết này. Xin đăng lên để bạn đọc chia sẻ
————————–
Thời
gian sống ở ATK, tôi (Trần Đức Thảo) bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như ngồi
dịch những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là theo
chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của một cây cảnh:
đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới về tham gia cách mạng!
Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một việc gì hữu ích cả!
– Sống như thế thì tẻ nhạt quá,
làm sao bác chịu nổi? (Ảnh chỉ có tính minh họa)
– Ấy trong quãng thời gian sống ở
bên lề chính trị như thế không hẳn là tẻ nhạt đâu. Thinh thoảng cũng có những
giây phút rất thú vị, rất vui. Bởi sống ở hậu phương thời kháng chiến, luôn
luôn được chứng kiến những ngang trái xảy ra thật là bất ngờ, làm bật cười, cười
đến chảy nước mắt. Trong cách mạng mà cũng có lúc ăn chơi lén lút, đáng ghi nhớ
về cái “thời bao cấp” ấy. Những thú vui chui lén như vậy cũng làm cho mình phải
suy nghĩ, tìm hiểu hiện tượng cách mạng và những khát vọng của con người…
– Thú vui lén lút đáng nhớ ấy là
gì?
Bác Thảo kể có một lần, “không thể
nào quên được”. Đó là lần được nhà văn Nguyễn Tuân mời đi ăn một bữa cơm Tây, tại
một xóm dân Hà Nội tản cư về sống gần ATK Khi vào tới xóm ấy, là phải chui qua
mấy hàng giây thép, trên phơi đầy quần áo màu mẻ sặc sỡ khác hẳn với quần áo
nâu sồng của nông thôn, được giặt để cất đi, ở sân sâu bên trong một căn nhà cổ,
để tới cái quán ăn chui lậu hiếm hoi ở hậu phương. Chủ nhân tự khoe mình từng
là đầu bếp của cựu thống sứ Bắc kỳ Graffeuil! Bữa ăn hôm ấy có cả món thịt bò.
Chateaubriand, có cả rượu vang Bordeaux. Thịt tươi là do cánh công an vừa săn
được mật con nai! Còn rượu cũng là do cánh công an mang từ Hà Nội ra! Ăn xong,
Tuân chửi vui: “Sư bố chúng nó! Tàn dư phong kiến, thực dân mà sướng thế đấy!”.
Thảo ngơ ngác không biết Tuân chửi ai? Ăn uống ngon lành thế sao lại chửi?
Sau
bữa ăn, Tuân còn cao hứng dẫn Thảo đi hát “cô đầu”! Dĩ nhiên cũng là hát chui,
hát lậu. Địa điểm là một căn nhà chòi có cót che kín mít, dùng để chứa nông cụ
thúng, mẹt, cày bừa… ở ngay giữa một cánh đồng lớn mới gặt xong. Thảo được đưa
tới chờ ở đó, nên rất lấy làm lạ. Ngồi một mình ngắm trăng mười sáu sáng ngời,
chung quanh là một cánh ruộng bàng bạc màu vàng khô khốc của những gốc rạ mới gặt
xong, xa xa là những luỹ tre xanh vi vu gió thổi. Cảnh thật đẹp và buồn.
Mãi sau, Tuân trở lại lố nhố với
năm, sáu người lạ mặt, trong đó có một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, mỗi
người ôm một cái túi khá lớn. Họ vào trong căn chòi rồi cài cài mấy tấm cót cho
kín đáo. Một ngọn đèn dầu hoả được thắp lên cho vừa đủ sáng để thấy tỏ mặt
nhau. Họ mở túi lấy ra, người thì một cái trống cơm nhỏ, người thì một cây đàn
đáy. Chị phụ nữ cung lấy ra hai que gỗ và một cái phách. Tuân nói thật trịnh trọng:
– Hôm nay tôi lén tổ chức chầu
hát này là để đãi ông bạn trí thức ở tận bên tây mới về. Yêu cấu em Đức hát cho
thật đạt chỉ tiêu đấy nhé!
Cô ca nương nhìn Thảo rồi đáp:
– Anh Tuân ơi! Anh ép, thì vì nể
anh em cũng cố mà ra đây hát thôi. Bởi em đã giải nghệ từ mấy năm nay rồi. Nêu
cồng an mà biết thì em sẽ bị đi tù mất. Hát ả đào bây giờ bị coi là thứ nhạc sa
đoạ của thời phong kiến, nó đã bị khai tử từ lâu rồi!
– Không sao đâu, anh đã lo lót hết
rồi. Tuân này bảo đảm mà!
– Cứ hát đi, đã có ông chủ tịch
xã kiêm trưởng công an ngồi nghe đây thì còn sợ gì!
– Thôi đừng khách sáo nữa! Ta bắt
đầu đi, kẻo đã quá canh khuya rồi. Đàn lên! Xin mời quan viên giữ trống ra tay!
Bắt đầu “Hồng, Hống, Tuyết Tuyết” đi em!
Vài tiếng đàn chậm rãi vẳng lên,
trầm bổng, thánh thót day dứt trong đêm khuya thanh vắng. Rồi một giọng ca
trong vắt, ngân nga, luyến láy vang lên giữa cánh đồng vằng vặc ánh trăng.
Rồi tiếng trống vào nhịp:
– Tom! Chát! Chát! Tom!
– Hồng,
hồng, tuyết, tuyết ứ ư ừ mới ư ừ ngày nào chửa… ư biết cái chi chi…
– Tom, tom, chát…
Tiếng hát, tiếng đàn nhịp trống bỗng
đưa mọi người nhập vào một thứ nghi lễ tôn giáo linh thiêng… gợi cảm, trữ tình
của nghệ thuật!
Bác Thảo vui vẻ, thích thú kể lại
thật chi tiết về một chầu hát ca trù lén lút vô cùng cảm xúc, trong đêm khuya ấy,
giữa một cánh đồng khô, trong lúc tình hình chiến tranh sôi động, mọi người lo
âu, bồn chồn không biết ngày mai sẽ ra sao!
Bởi đấy là lần đầu tiên trong đời
bác Thảo được nghe tiếng hát “trong như pha-lê, luyến láy ngân nga, thấm nhập
tâm can, làm rung động toàn thân xác.,.”. Bác say sưa khen:
– Ôi! Lúc ấy, tiếng đàn, tiếng
hát, sao có thể thuần khiết, âm vang sâu thẳm đến thế! Tiếng trống bắt nhịp thật
lịch duyệt, như thúc dục, như khuyến khích ca nương!
Bài ca vừa chấm đứt, Thảo không
nhịn được phản ứng ngạc nhiên, nên hỏi:
– Sao thứ ca dân gian này có thể
nghệ thuật đến thế! Hay như vậy sao lại cấm? Trong đời tôi, tuy đã từng biết
thưởng thức những tiếng đào, lời ca cổ điển vô cùng nghệ thuật của lối hát đại
nhạc (opéra) phương Tây, nhưng đây là lần đầu tiên tôi khám phá ra một lối ca
nghệ thuật tuyệt kỹ, vừa trữ tình, vừa huyền bí, thiêng liêng như của một tôn
giáo, nghe mà rợn cả người, cứ y như bỗng mình được lạc vào cõi thiên thai. Một
thứ nghệ thuật truyền thống quý như vậy, sao lại bắt nó phải chết?
– Tại vì xưa kia nó phục vụ giới
quan lại, phú hộ thời phong kiến! – Tuân giải thích – Thôi bây giờ thì ca tiếp
đi chứ!
Người nghệ sĩ chơi đàn, người
“quan viên” giữ nhịp trống điều khiển, rồi ca nương, tất cả đều đắm say diễn tả,
như hoà tâm hồn vào mấy bài hát nói danh tiếng của mấy nhà thơ trứ danh thời
trước. Tay đàn, tay trống và ca nương, tất cả đều biểu diễn, với tất cả sở trường,
y như đang làm sống dậy giây phút thanh bình của đất Hà thành thanh lịch xa
xưa!
Thảo giải thích thêm với chúng
tôi:
– Tiếng hát ả đào đúng là hợp với
tâm tư, hoàn cảnh của từng người lúc ấy. Ai ai cũng đang mang nặng một tâm tư u
buồn, nên mới hát được như thế, mời nghe thấu được nỗi niềm của giọng hát, lời
ca. Tôi đã từng biết lối hát đại nhạc (opéra) của phương Tây. Lối hát ấy là
dùng sức buồng phổi đẩy làn hơi qua thanh quản để đưa nốt nhạc vọt lên chói vót
như thi tài với tiếng đàn. Nhưng lối hát ả đào thì tế nhị hơn, vì ca nương phải
kiềm chế làn hơi, rồi từ từ vừa đẩy, vừa níu lại làn hơi qua họng, để uốn nắn
âm thanh qua thanh quản, làm nó uyển chuyển, luyến láy, nghẹn ngào; như than
van, nức nở, để bầy tỏ nỗi niềm… Nghệ thuật hát ả đào, do đó tinh vi, truyền cảm
tình tiết cao siêu, sâu sắc, huyền bí hơn hẳn đại nhạc phương Tây, Tôi không hiểu
sao một nghệ thuật tuyệt vời như thế mà lại nỡ lòng mang vứt bỏ nó đi! Một dân
tộc có một nền văn minh cao độ mới có thể có một lối hát nghệ thuật đậm tính
văn hoá dân tộc đến thế, sao lại chê bai, kết tội nó!
– Ôi dào! Bây giờ thì cái gì của
thời cũ đều bị phá đi, vứt bỏ hết! Bây giờ người ta tính áp dụng lối tiêu thổ
kháng chiến ở Liên Xô, phá sập, dẹp hết, đốt hết, san thành bình địa ráo, để địch
không thể xâm chiếm được. Nơi nào có tinh thần kháng chiến cao như vùng Vinh,
Thanh Hoá, Nghệ An thì đã bắt đầu có lệnh thi hành chính sách “tiêu thổ”. Với
hô hào “tất cả cho kháng chiến”. Tiếc gì cái lối đa truyền cảm, trữ tình, nay bị
coi là truỵ lạc, là sa đoạ này!
Chầu hát ả đào dần tới hồi kết
thúc. Quan viên cầm trống bỗng đứng dậy, bước tới trước mặt nhà văn Nguyên
Tuân, nghiêm chỉnh cúi đầu nói:
– Xin kính mời quan bác! Quan bác
là người đã nổi tiếng là tài danh cầm chầu là tài tử lịch duyệt của ca trù, đệ
xin trả lại ngôi quan viên cho quan bác, để quan bác giữ nhịp cho bài ca cuối
cùng của chầu hát chui này. Đệ chọn bài “Tỳ bà hành” để kết thúc, y như trong
các buổi ca trù của các nhà hát trứ danh của Hà thành thanh lịch thủa xa xưa.
Nguyễn Tuân nghiêm nghị đón nhận
chiếc trống nhỏ, sửa lại thế ngồi cho ngay ngắn, đặt trống xuống đúng tầm tay,
đưa roi trống lên cao, rồi nhìn tay đàn và ca nương, đúng cách quan viên sành
điệu, như vị nhạc trưởng của ban đại hợp tấu, chuẩn bị phát lệnh trên một chiếu
hát. Mọi người chờ tiếng trống phát ra. Nhưng Nguyễn Tuân lại đặt nhẹ rồi trống
xuống và nói với giọng trầm buồn:
– Này em Đức ơi! Anh biết em từng
là ngôi sao ca nương sáng chói của lò hát bà Đốc Sao ở Hà Nội. Xưa kia thì phải
là cỡ tuần phủ tri huyện trở lên tới tống đốc mới được nghe tiếng em ca. Thế rồi
cách mạng về thì nhà bà Đốc Sao biến đâu mất tích. Nay được tin em trôi dạt về
đây, anh đã phải bịa chuyện xin đi công tác phương này, cốt là để tìm em, để được
nghe em hát thêm một lần, cho dù mai sau có chết vì bom đạn thì anh cũng mãn
nguyện là đã tận hưởng cuộc đời. Bởi hôm nay đây, cái cánh đồng khô giữa vùng đất
núi rừng Tuyên Quang nảy bỗng trở thành một bến Tầm Dương! Và em Đức sẽ là người
đưa tiễn anh với anh Thảo đây, đều là những tư mã của thời đại, đang bị thời thế
lưu đày về cái đất Giang Châu của Tuyên Quang này… Em hãy ca thật hay lên, để
tiễn đưa chúng anh ngày mai lại lên ứ… ư đường! Chỉ tiếc ở đây không có rượu
ngon để anh ngâm mấy câu thơ cổ:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!
(Thơ Vương Hàn, Lương Châu Từ,
Trung Quốc)
Rồi Nguyễn Tuân cao hứng, đằng hắng,
lấy giọng ngâm thật thống thiết tiếp:
Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Chén chưa kịp cạn, tỳ bà thúc đi
Sa trường say, cười mà chi
Xưa nay chinh chiến, mấy ai trở về!
(Người dịch khuyết danh)
Cây roi giơ lên phát lệnh bắt đầu
bài hát:
– Tom! Tom! Chát!
Nhưng tất cả ngạc nhiên vì ca
nương không cất tiếng hát mà lại ôm mặt khóc nức nở! Thảo ngồi đấy cũng long lanh
nước mắt. Vì trong lòng cũng cảm thấy một nỗi u buồn thấm thìa khó tả, chẳng rõ
vì sao. Nức nở, sụt sùi mọt hồi, ca nương lấy lại bình tĩnh nói:
– Em xin lỗi! Em xin lỗi! Vì nhìn
mấy anh ăn mặc nâu sồng vất vả, mặt mày hốc hác, em thấy thương mấy anh quá! Mà
em cũng khóc cả cho thân phận em! Thôi để em hát, để tiễn đưa các anh, và cũng
là đưa em nữa, vì mai đây gia đình em sẽ tìm đường về xuôi, vì cái bến Tầm
Dương của em là bên quê ngoại ở mãi vùng Thái Bình cơ!
– Thôi nín đi em! Hát đi em!
Nguyên Tuân lại nổi trống giục:
– Tom! Tom! Tom! Chát!
Ca nương bắt đầu lên giọng ngân
nga, luyến láy não lòng:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa
khách
Quạnh hơi thu lau lạch đìu hiu
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc
vui
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tẩm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn
vàn
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước
trôi, lạnh lùng
Nghe não ruột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người
Giang Châu tư mã đượm mùi áo
xanh…
(Trích thơ Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh
dịch)
– Tom! Chát! Chát! Tom!
Tiếng trống vang lên như để khen
“Thật tuyệt vời!”, tiếng đàn cùng tiếng hát ngưng bặt. Cả cái chòi cót giữa
cánh đồng không ấy bỗng im lặng hoàn toàn. Chỉ cỏn tiếng gió, xào xạc, qua một
bụi tre, vọng lại từ xa.
Trong chòi, mọi người, như chết lặng
vì quá cảm xúc Tất cả êm thấm đứng dậy, chậm rãi thu xếp trống, đàn, từ từ rút
lui. Tất cả họ bùi ngùi, câm nín, ra về trong sợ sệt, nhìn trước, ngó sau, lắng
tai, phóng mắt ra khắp phía xa chung quanh, không ai nói với ai nửa lời. Mỗi
người mỗi nặng một tâm tư luyến tiếc, lo âu, sợ hãi…
Nguyên Tuân ghé tai Thảo:
– Này ông bạn trí thức của tôi
ơi, nhớ cho kỹ là đừng cho ai biết là tôi đãi ông chầu hát ca trù này đấy nhé!
Phải “bem” (giữ bí mật) kẻo lại bị ngồi viết kiểm điểm thì mệt lắm đấy!
– Thú thật là ngồi nghe, tuy
không hiểu hết ca từ, nhưng tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống y như mình cũng
đang khóc cho nỗi niềm u uất của chính mình. Không thể ngờ là lối ca này nó thấm
thía vào tim gan đến thế!
– Anh có biết tại sao ca trù nó
thấm thía vào tâm hồn mọi người không? Tại vì đây là một lối ca trữ tình. Bởi lời
ca toàn là những bài thơ, bài hát nói của một nền vãn chương quý phái đã lâu đời.
Cách diễn tả lại càng trữ tình hơn. Vì làn hơi bị ức chế trong lồng ngực để rồi
được đẩy ra thành tiếng luyến láy nghẹn ngào, nức nở, để bầy tỏ những tình cảm
uất ức khó diễn tả, nên ca mà cứ như nấc nghẹn, muốn than van, nuối tiếc, khóc
thương một thời hạnh phúc đã mất… Ai mà có nỗi niềm trong lòng thì mới thưởng
thức hết được cảm xúc sâu thẳm của ca trù. Tôi biết anh cũng đang có nhiều nỗi
niềm bị ức chế ở trong lòng nên tôi mới mời anh đi hát hôm nay. Có đúng như vậy
không nào?
Thảo nhìn Tuân chằm chăm, rồi ngần
ngừ nói:
– Anh hỏi tôi câu ấy làm tôi chột
dạ. Cố phải anh là môn đệ của Freud đã nhìn thấy tâm can tôi không? Hay anh là
cán bộ của “cụ Hồ” đang gài bẫy để bắt quả tang lập trường chao đảo của tôi
đây?
– Tôi chưa hề đọc Freud. Và anh
cũng đã mắc cái bệnh cảnh giác nặng rồi đấy. Nhưng cứ yên tâm, vì thằng Nguyễn
Tuân này dù thế nào thì cũng không thể hèn mạt đến nỗi bán rẻ tình bạn cho cách
mạng đâu. Anh cứ bình tĩnh mà chịu đựng và chờ đợi, chờ thời… Tôi hỏi thật, anh
có hiểu tại sao ca trù nó lại thấm thấu tâm can chúng ta như vậy không?
– Tại sao vậy anh?
– Tại vì ca trù toàn chuyên chở
âm điệu những nuối tiếc, những tình hận, những chí cả sinh bất phùng thời của
những kẻ bất mãn, bất đắc chí như anh đấy!
– Sao anh thấy được tận đáy lòng
tôi như thế? Xin cảm ơn anh! Nhưng cũng xin anh đừng làm tôi sợ vì đúng là anh
đã bắt quả tang tôi đang chao đảo lập trường đối với cách mạng!
– Anh đừng lo. Tôi hiểu anh vì
tôi hiểu tôi. Bởi chúng ta chỉ là bọn Giang Châu tư mã đang bị giông bão thời
cuộc đánh trôi dạt về cái bên Tầm Dương rừng rú này. Buồn lắm! Thảm lắm anh ơi!
Với anh tôi mới dám thổ lộ tâm sự u buồn của tôi. Bởi tôi biết sợ cũng như anh
biết sợ…
Rồi bác Thảo còn cho biết sau khi
về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời bác đi nghe hát ca trù chui lậu thêm
hai lần nữa, nhưng những lần sau này thì không còn xúc động mạnh như lần đầu,
trong cái chòi tranh thô kệch nghèo nản ở giữa cái cánh ruộng khô, đêm trăng ấy
nữa.
Trích “Trần Đức Thảo – Những
lời trăn trối”, Phan Ngọc Khuê ghi.
--
TRAN
NANG PHUNG
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for Comment