NHỮNG CA KHÚC HAY NHẤT CỦA DIỆU HIỀN [12 Ca Khúc] (Super HD
Videos)
https://www.youtube.com/playlist?list=PLfe9JTtbGcgWN0GqhGUpQbWs91B8ISRid
CA SI DIEU HIEN PLAYLIST
https://www.youtube.com/playlist?list=PLfe9JTtbGcgUuY2UDOLNKsWSalxLCz3n2
---------- Forwarded message
---------
From: binh do <
Date: Sat, Apr 20, 2019 at 7:58 AM
Subject: RE: NHỮNG NỐT THĂNG TRẦM
From: binh do <
Date: Sat, Apr 20, 2019 at 7:58 AM
Subject: RE: NHỮNG NỐT THĂNG TRẦM
Xin gởi đến qúy Diễn Đàn và Qúy Anh Chị.
Vài Dòng Cảm Nghĩ Về Một Số Nhạc Sĩ.
Vài Dòng Cảm Nghĩ Về Một Số Nhạc Sĩ.
ĐB
NHỮNG NỐT THĂNG TRẦM
Đỗ Bình
Âm nhạc làm say đắm lòng người, nhưng con đường âm nhạc thì dài thăm thẳn và đầy gian nan. Người nghệ sĩ nhiều khi cảm thấy đơn độc, chênh
vênh, có lúc như những nốt nhạc thăng trầm. Vì yêu âm nhạc họ
vẫn miệt mài sáng tác, chau chuốt những hình nốt âm thanh giai điệu đến cuối đời vì nghệ thuật. Những tác phẩm nghệ thuật đó đã nói được tâm tình của người dân và hồn dân tộc cũng giống như Dân
Nhạc ba miền đều nói được tâm tình người dân và hồn dân tộc góp phần
làm phong phú kho tàng văn hóa dân tộc. Trong số những nhạc sĩ ra hải ngoại có
người đã khuất núi và có người còn sống. Những Nhạc sĩ khuất
núi : Xuân Lôi, Thẩm Oánh, Phạm Duy, Trần Văn Khê, Nguyễn Hiền,
Hoàng Trọng, Văn Phụng, Hoàng Thi Thơ, Lê Mộng Bảo, Phạm Đình Chơng, Anh
Bằng, Trầm Tử Thiêng , Trần ThiệnThanh, Nguyễn Đức Quang….. Những nhạc
sĩ còn sống : Lam Phương, Lê Dinh..vv…
Xin minh họa vài nét đặc sắc
của một số vị nhạc sĩ khuất núi :
Thẩm Oánh
Sinh năm 1916
tại Hà Nội và mất năm 1996 tại Hoa Kỳ.
Ông sáng tác hơn 1000 bài ca đủ thể
loại : Truyện Ca, (Vợ Chồng Ngâu,Thiếu Phụ Nam Xương), Hùng
Ca, Tôn giáo Ca, Nhạc Kịch, Tình Ca…
Ca khúc đầu tay Khúc yêu Đương năm 1937, Đôi
Oanh Vàng 1937 , Xuân Về 1937.
Ông là một trong số ít những nhạc sĩ đầu tiên của nền âm nhạc cải cách Việt Nam. Là một trong những người thành lập ban nhạc Tài Tử đầu tiên của Việt Nam năm 1937, đó là ban Omysotis gồm 9 người : Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Trần Dư, Phạm Văn Chừng, Đoàn Văn An, Simon, Nguyễn Thiện Cơ, Nguyễn Văn Phán và Tô Anh Đào. Nhạc của Thẩm Oánh thuộc loại thính phòng bán cổ điển Tây phương, giá trị….
Xuân Lôi
Ông là một trong số ít những nhạc sĩ đầu tiên của nền âm nhạc cải cách Việt Nam. Là một trong những người thành lập ban nhạc Tài Tử đầu tiên của Việt Nam năm 1937, đó là ban Omysotis gồm 9 người : Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Trần Dư, Phạm Văn Chừng, Đoàn Văn An, Simon, Nguyễn Thiện Cơ, Nguyễn Văn Phán và Tô Anh Đào. Nhạc của Thẩm Oánh thuộc loại thính phòng bán cổ điển Tây phương, giá trị….
Xuân Lôi
Sinh ngày 21 tháng 10 năm 1917 tại Hà Nội, và
mất ngày 29 tháng 8 năm 2006 tại Paris.
Là một trong những nhạc sĩ thuở ban đầu của
nền tân nhạc Việt Nam. Ông rất đa tài sử dụng rất nhiều nhạc khí Tây phương.
Trong sáng tác ông là một trong những người nhạc sĩ đầu tiên đã đem nhạc Tây
phương phối hợp với nhạc ngũ cung Việt Nam làm phong phú nhạc dân tộc. Dù cao
tuổi nhc sĩ Xuân Lôi vẫn mang tiếng đàn Bầu, tiếng kèn saxo ténor, Saxo alto đi
khắp nơi phục vụ thiện nguyện cho công chúng.
Sáng chế đàn Xuân Lôiphone gồm 39 lon bia
bằng thiếc (một loại đàn gõ) với ba bát độ.
Tác phẩm xất bản :
Chèo Cổ
Dạy Đàn Tranh
Dạy Đàn Tranh
Tiếng Hát Quê Hương
Hồi Ký Xuân Lôi
Tiếng Hát Quê Hương 1958, giải nhất cuộc thi
sáng tác quốc gia.
Bài Hát Cho Người Tưự Do 1961, giải nhất cuộc thi sáng tác của đài phát thanh quân đội.
Nhữntg nhạc phẩm tiêu biểu.
Nhạt Nắng, Gió Hiền, Đường Chiều, Bâng KhuânBài Hát Cho Người Tự Do, Tiếng Hát Quê Hương. ….
Bài Hát Cho Người Tưự Do 1961, giải nhất cuộc thi sáng tác của đài phát thanh quân đội.
Nhữntg nhạc phẩm tiêu biểu.
Nhạt Nắng, Gió Hiền, Đường Chiều, Bâng KhuânBài Hát Cho Người Tự Do, Tiếng Hát Quê Hương. ….
Trần Văn Khê
Sinh ngày 24 tháng 7 năm 1921 tại Mỹ Tho và mất 24 tháng 6, năm 2015.
Là một nhà nghiên cứu văn hóa , âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Ông là tiến sĩ ngành âm nhạc học và từng là giáo sư tại Đại học Sorbonne, Pháp.
Vận động Phục hồi giá trị của Nhã Nhạc Cung Đình Huếvà đã được UNESCO công nhận.
Giới thiệu âm nhạc cổ truyển Việt Nam với thế giới. Ông đã đi 67 nước trên khắp thế giới để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam.
- Thành
viên danh dự Hội đồng Âm nhạc Quốc tế….
Phạm Duy
Sinh ngày 5 tháng10 năm 1921, mất ngày 27 tháng 1 năm 2013.
Sáng tác hơn 1000 bài ca đủ thể loại :
Quê Hương, Kháng Chiến, Dân Ca, Đạo Ca, Thiền Ca, Tục Ca, Tâm Ca, Du Ca, Hoan
Ca, Tình Ca, Trường Ca ( Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam), Tị Nạn Ca…
Là một một trong những nhạc sĩ hàng đầu của nền tân nhạc VN. Nhạc phạm Duy đã đi vào lòng người với nhiều ca khúc vượt thời gian. Viết về nhạc sĩ tài danh Phạm Duy có hơi thừa, vì ông đã viết hồi ký nói về đời mình. Từ bản nhạc đầu đời: Cô Hái Mơ phổ thơ Nguyễn Bính, có thể nói Phạm Duy là người phổ thơ nhiều nhất trong giới nhạc sĩ thời bấy giờ. Đa số nhạc phổ thơ của ông rất hay vì đã chọn những bài thơ có giá trị nên nhạc của ông đóng góp vào kho tàng âm nhạc dân tộc rất nhiều, nhất là dòng nhạc trữ tình mang chất thính phòng. Ông là một trong những nhạc sĩ lớn, hàng đầu về số lượng tác phẩm và đa dạng về thể loại: Nhạc kháng chiến: Tình Ca, Bà mẹ Gio Linh, Nương Chiều, NgàyTrở Về, Chiến Sĩ Vô Danh, Về Miền Trung, Tình Hoài Hương, Bà Mẹ Quê, Em Bé Quê... Tình ca lứa đôi: Cây Đàn Bỏ Quên, Bên Cầu Biên Giới, Tiếng Đàn Tôi, Cành Hoa Trắng, Hẹn Hò, Tìm Nhau, ThươngTình Ca, Ngày Đó Chúng Mình, Mưa Rơi, Đường Em Đi, Nghìn Trùng Xa Cách, NhaTrang Ngày Về, Phượng Yêu,Giết Người Trong Mộng, Trả Lại Em Yêu,... Trường ca, Tâm ca, Bi ca, Đạo ca, Tục ca, Thiền ca, Rong ca, Tị nạn ca. Những bài tình ca quê hương và tình ca lứa đôi đã chắp cánh đưa hương thơm nhạc sĩ lên đỉnh chót vót của âm nhạc, và có lúc dòng nhạc «lạ» đã đẩy thiên tài rơi xuống đáy vực vì những bài Tục Ca pha đầy chất hệ lụy mà thói quen thưởng ngoạn âm nhạc của công chúng thuở ấy vẫn chưa tiếp nhận được! Nhạc sĩ Phạm Duy viết hững bài Tục ca là do ảnh hưởng từ nhạc sĩ, thi sĩ, ca sĩ người Pháp tên là Georges Brassens, rất nổi tiếng, sinh năm 1921 và mất 1981. Bài Tục ca số 5: "Khỉ đột" của Phạm Duy viết năm 1970 tại Sài Gòn bắt nguồn từ bài Le gorille, hay còn gọi là Gare au gorille của Georges Brassens.Trong cuốn Ngàn Lời Ca của Phạm Duy, ông viết :«Trong thời gian tôi đi học nhạc tại Pháp (1954-1955), tôi rất yêu thi sĩ kiêm ca nhạc sĩ Georges Brassens. Nghệ sĩ này nổi tiếng vì tính bất cần đời của ông. Khi ra sân khấu, ông không chào hỏi khán giả, ghếch một chân lên ghế, ôm đàn guitare hát với giọng hát đồng quê (accent du terroir) chứ không phải với giọng điêu luyện nhà nghề. Hát xong là đi thẳng vào hậu trường, không để ý tới tiếng vỗ tay của khán giả. Georges Brassens tự nhận mình là "le pornographe de la chanson", người viết nhạc khiêu dâm hay là "le polisson de la chanson", kẻ nói tục trong ca khúc. Trong số những bài ông gọi là "chansons grossières", tôi thích bài "Gare au gorille" và dịch nguyên văn để thành tục ca số 5 nhan đề "Khỉ đột».
Phải chăng để đối nghịch với cái «tục lụy» ông đã sáng tác ra một số ca khúc mang tínhThiền ? Những ca khúc đó về mặt cấu trúc, giai điệu rất hay, tuy nhiên với cá tánh sôi động và tham ái thì làm sao ông có thể lắng đọng tâm hồn, diễn tả được cái tinh khiến thanh tịnh để hoàn tất được chân lý của Thiền định. Phạm Duy là một người đa tài nhưng lắm tật vì cách sống quá hiện thực. Ông không chạy theo những lý tưởng cao siêu, luôn hòa theo nhịp thở thăng trầm của xã hội, đôi khi thái quá khiến người đời chưa cảm thông được! Ông thường nói :«Rồi đời sau, người ta sẽ hiểu tôi hơn !»….
Hoàng Trọng
Sinh năm 1922 tại Hải Dương mất 16 tháng 7 năm 1998 tại Hoa Kỳ. Ông là một nhạc sĩ nổi tiếng được mệnh danh là Vua Tango của âm nhạc Việt Nam. Tiếng Đàn Tôi, một trong những bản Tango đầu tiên của Việt Nam. Ông viết khoảng 200 nhạc phẩm, trong đó có sự hợp tác viết lời của Hồ Đình Phương, Hoàng Dương, Nguyễn Túc, Quách Đàm, Vĩnh Phúc... Sáng tác đầu tay Đêm Trăng viết năm 1938. Năm 1950, nhạc sĩ Hoàng Trọng gia nhập quân đội. Ông là trưởng ban Quân nhạc Bảo Chính Đoàn trình diễn mỗi tuần tại một vườn hoa cạnh Bưu điện Hà Nội và trong chương trình Tiếng nói Bảo Chính Đoãn của đài phát thanh Hà Nội. Năm 1953 tên tuổi Hoàng Trọng thực sự nổi tiếng với Nhạc Sầu Tương Tư, ca khúc đó được trình diễn thường xuyên trên đài phát thanh khi ấy.
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Là một một trong những nhạc sĩ hàng đầu của nền tân nhạc VN. Nhạc phạm Duy đã đi vào lòng người với nhiều ca khúc vượt thời gian. Viết về nhạc sĩ tài danh Phạm Duy có hơi thừa, vì ông đã viết hồi ký nói về đời mình. Từ bản nhạc đầu đời: Cô Hái Mơ phổ thơ Nguyễn Bính, có thể nói Phạm Duy là người phổ thơ nhiều nhất trong giới nhạc sĩ thời bấy giờ. Đa số nhạc phổ thơ của ông rất hay vì đã chọn những bài thơ có giá trị nên nhạc của ông đóng góp vào kho tàng âm nhạc dân tộc rất nhiều, nhất là dòng nhạc trữ tình mang chất thính phòng. Ông là một trong những nhạc sĩ lớn, hàng đầu về số lượng tác phẩm và đa dạng về thể loại: Nhạc kháng chiến: Tình Ca, Bà mẹ Gio Linh, Nương Chiều, NgàyTrở Về, Chiến Sĩ Vô Danh, Về Miền Trung, Tình Hoài Hương, Bà Mẹ Quê, Em Bé Quê... Tình ca lứa đôi: Cây Đàn Bỏ Quên, Bên Cầu Biên Giới, Tiếng Đàn Tôi, Cành Hoa Trắng, Hẹn Hò, Tìm Nhau, ThươngTình Ca, Ngày Đó Chúng Mình, Mưa Rơi, Đường Em Đi, Nghìn Trùng Xa Cách, NhaTrang Ngày Về, Phượng Yêu,Giết Người Trong Mộng, Trả Lại Em Yêu,... Trường ca, Tâm ca, Bi ca, Đạo ca, Tục ca, Thiền ca, Rong ca, Tị nạn ca. Những bài tình ca quê hương và tình ca lứa đôi đã chắp cánh đưa hương thơm nhạc sĩ lên đỉnh chót vót của âm nhạc, và có lúc dòng nhạc «lạ» đã đẩy thiên tài rơi xuống đáy vực vì những bài Tục Ca pha đầy chất hệ lụy mà thói quen thưởng ngoạn âm nhạc của công chúng thuở ấy vẫn chưa tiếp nhận được! Nhạc sĩ Phạm Duy viết hững bài Tục ca là do ảnh hưởng từ nhạc sĩ, thi sĩ, ca sĩ người Pháp tên là Georges Brassens, rất nổi tiếng, sinh năm 1921 và mất 1981. Bài Tục ca số 5: "Khỉ đột" của Phạm Duy viết năm 1970 tại Sài Gòn bắt nguồn từ bài Le gorille, hay còn gọi là Gare au gorille của Georges Brassens.Trong cuốn Ngàn Lời Ca của Phạm Duy, ông viết :«Trong thời gian tôi đi học nhạc tại Pháp (1954-1955), tôi rất yêu thi sĩ kiêm ca nhạc sĩ Georges Brassens. Nghệ sĩ này nổi tiếng vì tính bất cần đời của ông. Khi ra sân khấu, ông không chào hỏi khán giả, ghếch một chân lên ghế, ôm đàn guitare hát với giọng hát đồng quê (accent du terroir) chứ không phải với giọng điêu luyện nhà nghề. Hát xong là đi thẳng vào hậu trường, không để ý tới tiếng vỗ tay của khán giả. Georges Brassens tự nhận mình là "le pornographe de la chanson", người viết nhạc khiêu dâm hay là "le polisson de la chanson", kẻ nói tục trong ca khúc. Trong số những bài ông gọi là "chansons grossières", tôi thích bài "Gare au gorille" và dịch nguyên văn để thành tục ca số 5 nhan đề "Khỉ đột».
Phải chăng để đối nghịch với cái «tục lụy» ông đã sáng tác ra một số ca khúc mang tínhThiền ? Những ca khúc đó về mặt cấu trúc, giai điệu rất hay, tuy nhiên với cá tánh sôi động và tham ái thì làm sao ông có thể lắng đọng tâm hồn, diễn tả được cái tinh khiến thanh tịnh để hoàn tất được chân lý của Thiền định. Phạm Duy là một người đa tài nhưng lắm tật vì cách sống quá hiện thực. Ông không chạy theo những lý tưởng cao siêu, luôn hòa theo nhịp thở thăng trầm của xã hội, đôi khi thái quá khiến người đời chưa cảm thông được! Ông thường nói :«Rồi đời sau, người ta sẽ hiểu tôi hơn !»….
Hoàng Trọng
Sinh năm 1922 tại Hải Dương mất 16 tháng 7 năm 1998 tại Hoa Kỳ. Ông là một nhạc sĩ nổi tiếng được mệnh danh là Vua Tango của âm nhạc Việt Nam. Tiếng Đàn Tôi, một trong những bản Tango đầu tiên của Việt Nam. Ông viết khoảng 200 nhạc phẩm, trong đó có sự hợp tác viết lời của Hồ Đình Phương, Hoàng Dương, Nguyễn Túc, Quách Đàm, Vĩnh Phúc... Sáng tác đầu tay Đêm Trăng viết năm 1938. Năm 1950, nhạc sĩ Hoàng Trọng gia nhập quân đội. Ông là trưởng ban Quân nhạc Bảo Chính Đoàn trình diễn mỗi tuần tại một vườn hoa cạnh Bưu điện Hà Nội và trong chương trình Tiếng nói Bảo Chính Đoãn của đài phát thanh Hà Nội. Năm 1953 tên tuổi Hoàng Trọng thực sự nổi tiếng với Nhạc Sầu Tương Tư, ca khúc đó được trình diễn thường xuyên trên đài phát thanh khi ấy.
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Cánh Hoa Yêu, Dừng Bước
Giang Hồ, Ngàn Thu Áo Tím, Tiễn Bước Sang Ngang, Gió Mùa
Xuân Tới, Một Thuở Yêu Đàn, Nhạc Sầu Tương Tư, Hai Phương
Trời Cách Biệt Phút chia ly,
-Tác giả cuốn Tự học Hạ Uy Cầm
-Tác giả cuốn Tự học Hạ Uy Cầm
Tại Sài Gòn, ông thành lập những ban nhạc
trình diễn trên đài phát thanh Sài Gòn, đài Quân đội, đài Tiếng Nói Tự Do và
đài Truyền hình Việt Nam.
Năm 1967 Ban hợp xướng Tiếng Tơ Đồng, với các ca sĩ, nhạc sĩ danh tiếng của Sài Gòn khi đó, đã trình bày nhiều ca khúc tiền chiến giá trị.
Năm 1967 Ban hợp xướng Tiếng Tơ Đồng, với các ca sĩ, nhạc sĩ danh tiếng của Sài Gòn khi đó, đã trình bày nhiều ca khúc tiền chiến giá trị.
Ông viết nhạc phim :Xin Nhận Nơi Này
Làm Quê Hương, Giã Từ Bóng Tối, Người Tình Không Chân Dung,
Sau Giờ Giới Nghiêm, Bão Tình.
Năm 1972- 1973 bộ phim Triệu Phú Bất Đắc Dĩ, Hoàng Trọng đã được giải thưởng Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng Hòa….
Lê Mộng Bảo
Sinh ngày 8 tháng 10 năam 1923 ở Huế và mất năm 2007 tại San José, California.
Giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam. Ca khúc đầu tay : Không Làm Nô lệ viết năm 1945, Ngày về chiến Tháng 1947, Dư hương 1948, Đàn Bướm Trắng 1950, Chiều Viễn xứ 1952.… những ca khúc viết vào thập niên 70 : Thương Về Quán trọ, Từ Chối, Mùa Ve sầu, Xa Anh rồi(1971), Sao Lừa Dối Em (1971), Thân Phận Tôi nghèo (1972), Đập Vỡ Cây Đàn (1972)……
Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo sáng tác hơn 50 ca khúc tuy không nhiều nhưng đã để lại trong lòng người những ray rứt về Tình Yêu và Thân Phận.Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam do ông phụ trách đã cống hiến cho đời biết bao nhạc phẩm hay của nhiều thế hệ nhạc sĩ VN.
Năm 1972- 1973 bộ phim Triệu Phú Bất Đắc Dĩ, Hoàng Trọng đã được giải thưởng Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng Hòa….
Lê Mộng Bảo
Sinh ngày 8 tháng 10 năam 1923 ở Huế và mất năm 2007 tại San José, California.
Giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam. Ca khúc đầu tay : Không Làm Nô lệ viết năm 1945, Ngày về chiến Tháng 1947, Dư hương 1948, Đàn Bướm Trắng 1950, Chiều Viễn xứ 1952.… những ca khúc viết vào thập niên 70 : Thương Về Quán trọ, Từ Chối, Mùa Ve sầu, Xa Anh rồi(1971), Sao Lừa Dối Em (1971), Thân Phận Tôi nghèo (1972), Đập Vỡ Cây Đàn (1972)……
Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo sáng tác hơn 50 ca khúc tuy không nhiều nhưng đã để lại trong lòng người những ray rứt về Tình Yêu và Thân Phận.Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam do ông phụ trách đã cống hiến cho đời biết bao nhạc phẩm hay của nhiều thế hệ nhạc sĩ VN.
Anh Bằng
Sinh ngày 5 tháng 5 năm 1926 tại Thanh Hóa, mất này 12 tháng 11 năm 2015 ở California, Hoa Kỳ.
Ông là một nhạc sĩ nổi tiếng dòng nhạc đại chúng của Việt Nam với số lượng sáng tác khoảng 650 ca khúc trong đó có tình quê hương và tình yêu lứa đôi. Ông là người đã sáng lập Trung tâm Asia vào năm 1980. Một trung tân nhạc đã đớng góp cho văn hóa bảo tồn ngôn ngữ, truyền thống, âm nhạc dân tộc nơi xứ người. Giúp cho những thế hệ trẻ Việt sinh tại hải ngoại yêu nhạc Việt. Ông gia nhập QLVNCH năm 1957 ngành Công binh sau chuyển sang Nha Chiến tranh Tâm lý trong Đại đội 2 Văn nghệ đến năm 1962 thì giải ngũ. Ông từng được giải thưởng : Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc" thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Sinh ngày 5 tháng 5 năm 1926 tại Thanh Hóa, mất này 12 tháng 11 năm 2015 ở California, Hoa Kỳ.
Ông là một nhạc sĩ nổi tiếng dòng nhạc đại chúng của Việt Nam với số lượng sáng tác khoảng 650 ca khúc trong đó có tình quê hương và tình yêu lứa đôi. Ông là người đã sáng lập Trung tâm Asia vào năm 1980. Một trung tân nhạc đã đớng góp cho văn hóa bảo tồn ngôn ngữ, truyền thống, âm nhạc dân tộc nơi xứ người. Giúp cho những thế hệ trẻ Việt sinh tại hải ngoại yêu nhạc Việt. Ông gia nhập QLVNCH năm 1957 ngành Công binh sau chuyển sang Nha Chiến tranh Tâm lý trong Đại đội 2 Văn nghệ đến năm 1962 thì giải ngũ. Ông từng được giải thưởng : Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc" thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Sầu
Lẻ Bóng 1, 2, 3 Sài Gòn Thứ Bảy Nửa Đêm Về Sáng Người Thợ Săn và Đàn
Chim Nhỏ. Nếu Vắng Anh, Tím Cả Chiều Hoang, Căn Nhà Ngoại Ô, Chuyện
Tình Lan và Điệp 1, 2, Trúc Đào, Tango Dĩ Vãng…
Những ca khúc phổ thơ :
Anh
Cứ Hẹn, Anh biết Em Đi Chẳng Trở Về, Khúc Thụy Du, Anh còn nợ em.
Ngoài ra ông còn cộng tác với hai nhạc sĩ Lê Dinh và Minh Lỳ với bút hiệu Lê Minh Bằng để đồng sáng tác nhiều ca khúc hay. Nguyễn Hiền Nguyễn Hiền sinh năm 1927 tại Hà Nội, mất ngày 23 tháng 12 năm 2005 ở California, Hoa Kỳ
Là
một nhạc sĩ nổi tiếng trong nền âm nhạc Việt Nam. Ông là tác giả nhiều ca
khúc giá trị. Nhạc phẩm Người Em Nhỏ (thơ Thiệu Giang là sáng tác đầu tay năm
viết 1945. Ông sử dụng dương cầm, vĩ cầm, phong cầm. 1950, ông là nhạc trưởng
của ban nhạc "Hotel de Paris" tại Hà Nội. Ở Sài Gòn ông làm Chủ sự
phòng Chương trình Đài Phát thanh Sài Gòn; Phụ tá giám đốc Đài Truyền hình
Việt Nam.
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Về
Đây Anh (Nguyễn Hiền & Nhật Bằng), Anh Cho Em Mùa Xuân (phổ từ thơ Kim
Tuấn mùng năm Tết, 1962), Lá Thư Gửi Mẹ (thơ Thái Thủy), Tìm Đâu
(1961, Mái Tóc Dạ Hương (thơ Đinh Hùng, Hai Phương Trời Cách Biệt,
Thanh Bình Ca (lời Thanh Nam), Gửi Một Cánh Chim, Tiếng Hát Học Trò (Nguyễn
Hiền & Minh Kỳ), Tiếng Sáo Diều, Chuyện đêm mưa (lời Hoài Linh), Hoa Bướm
Ngày Xưa (Nguyễn Hiền & (Nguyễn Hiền & Lan Đài)) Ngàn Năm Mây Bay,
Thầm Ước, Về Bến Xưa (Nguyễn Hiền & Thiện Huấn), Một Tiếng Em (thơ
Đinh Hùng)…vvv..
Hoàng Thi Thơ Là một người đa tài, ông sinh 16 tháng 7 năm 1929 và mất 23 tháng 9 năm 2001. Những bút hiệu khác: Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích Khê, Triệu Phong. - Năm 1947 ông bắt đầu làm báo, viết văn, sau đó viết nhạc, tổ chức đại nhạc hội, viết nhạc kịch,- điện ảnh, nghiên cứu nghệ thuật múa. Ông là một nhạc sĩ nỗi tiếng trước năm 1975 đã sáng tác trên 500 ca khúc từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch những ca khúc đó hôm nay vẫn được công chúng yêu mến.
Ở
Sài Gòn
- Năm 1955, Hoàng Thi Thơ sáng tác hai bài trường ca đầu tiên mang tên "Triều Vui Thế Hệ" & "Máu Hồng Sử Xanh". Năm sau, ông cho ra đời trường ca “Ngày Trọng Đại” và đến năm 1963 là "Tiếng Trống Diên Hồng". - Năm 1961, ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm hơn 100 nghệ sĩ tên tuổi và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu cũng như nhiều thành phố trên thế giới: Vạn Tượng, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London... và nhiều nơi ở Hoa Kỳ. - Năm 1967, ông thành lập tiếp Đoàn Văn Nghệ Maxim, gồm 70 diễn viên ca-vũ-nhạc-kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại nhà hàng Maxim. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người duy nhất được Bộ Thông tin và Tổng cục Chiến tranh Chính trị Việt Nam Cộng hòa nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn…Tháng 4 năm 1975, đoàn văn nghệ của ông đang lưu diễn ở Nhật Bản thì xảy ra sự kiện lịch sử ngày 30-4-1975.
Những nhạc ohẩm tiêu biểu :
Những
ca khúc hào hùng như :
Quang Trung Đại Phá Quân Thanh" hoặc "Trưng Vương Đại Phá Quân Đông Hán". Nhiều ca khúc quen thuộc vẫn được người Việt Nam yêu mến cho đến tận nay.
Nhạc kịch - điện ảnh :
Đạo diễn sáng tác vở nhạc kịch đầu tiên năm 1963, mang tên "Từ Thức Lạc Lối Bích Đào". Năm 1964, vở nhạc kịch thứ nhì "Dương Quý Phi". Năm 1966 vở "Cô Gái Điên". Năm 1968 vở "Ả Đào Say".
Năm
1965, Hoàng Thi Thơ trở thành đạo diễn điện ảnh với cuốn phim đầu tiên là "Cô
Gái Điên" quay thành phim từ nhạc kịch cùng tên của ông, do Trung
tâm Điện ảnh Quốc gia sản xuất.
Năm
1969, ông đạo diễn cho phim "Người Cô Đơn" do chính ông sản
xuất. Sau khi ra đến hải ngoại, Hoàng Thi Thơ vẫn tiếp tục làm đạo diễn cho
một số phim video như "Chuyện Tình Buồn", "Tiếng Hát
Trong Trăng", "Người Đẹp Bạch Hoa Thôn" và "Chiêu
Quân Cống Hồ".
Nghiên cứu nghệ thuật múa :
Hoàng
Thi Thơ cũng nghiên cứu các điệu múa. Ông được cho là người tiên phong xây
dựng những điệu vũ vừa hiện đại vừa đậm chất dân tộc. Ông cùng với vũ sư
Trinh Toàn và vũ sư Lưu Hồng đã có nhiều công trình hợp tác nghiên cứu và
sáng tạo các điệu múa dân tộc: Vũ múa trống, Vũ lên đồng, Vũ múa nón, Múa
xòe, Múa Koho...
Phạm
Đình Chương
Sinh
ngày 14 tháng 11 năm 1929 ở Bạch Mai Hà Nội và mất ngày 22
tháng 8 năm1991 tại California, Hoa Kỳ. Ông xuất thân trong gia đình hầu hết
đều là nghệ sĩ. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương lấy tên thật làm bút danh, ngoài ra ông còn là ca sĩ Hoài Bắc
trong ban hợp ca Thăng Long gồm : Phạm Duy, Hoài Bắc, Hoài Trung,Thái Hằng, Thái Thanh.
Nhạc
sĩ Phạm Đình Chương sáng tác hơn 50 ca khúc đa số đều hay. Trường ca Hội Trùng Dương là bản tình ca quê hương
hay và độc đáo. Ca khúc tiêu biểu cho nhạc Phạm Đình Chương là bài Ly Rượu
Mừng, bài hoan ca điệu Valse lời vui tươi giai điệu du dương và cứ
mỗi lần vào dịp Tết người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu gặp nhau đều hân hoan
ca chung khúc này, có lẽ trăm năm sau chung khúc này vẫn còn. Trong sự nghiệp
sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương ông viết những ca khúc theo cảm hứng rung động thật bằng con
tim nên cấu trúc nhạc không cầu kỳ nhưng lại cho đời những ca khúc hay, độc
đáo về những chủ đề Tình phụ, Dang dở, Quê hương, Thân phận, Xóm nghèo, Kiếp
người, như : Thuở Ban Đầu, Xóm Đêm, Đêm Cuối Cung... đầy thiết
tha và ray rứt. Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ
phổ thơ hay nhất, ca khúc phổ thơ:
Nửa Hồn Thương Đau: thơ Thanh Tâm Tuyền, Người Đi Qua Đời Tôi: thơ Trần Dạ Từ, Khi Cuộc Tình Đã Chết: thơ Du Tử Lê, Màu Kỷ Niệm: thơ Nguyên Sa, Mộng Dưới Hoa: thơ Dinh Hùng, Đôi Mắt Người Sơn Tây: thơ Quang Dũng….những ca khúc đó đã vượt thời gian thấm sâu vào lòng bao thế hệ.
Đã
có nhiều nhà nghiên cứu, học giả viết về nhạc sĩ Phạm Đình Chương, phân tích
về nhạc cũng như những ca từ, nhất là bài Xóm Đêm điệu Boléro của ông. Thời
thập niên 50 những dòng nhạc Boléro, Rumba của ngoại quốc bắt đầu thịnh hành
ở nước ta. Những Ca khúc Bésame Mucho điệu Boléro do Consuelo Velázquez sáng
tác năm 1940 được thu âm bởi Emilio Tuero, và sau đó được rất nhiều nghệ sĩ
khác biểu diễn. Hoặc Ca khúc Quizás, quizás, quizás điệu Boléro
nguyên bằng tiếng Tây Ban Nha do nhạc sĩ người Cuba Osvaldo Farrés sáng tác
vào năm 1947. Lời tiếng Pháp với tựa đề "Qui sait, qui sait, qui
sait" do Jacques Larue chuyển ngữ, ban đầu do ca sĩ Luis Mariano thu âm. Hay
là Ca
khúc Un Historia de Un Amor của Carlos Eleta Almarán bằng
tiếng Ý viết theo điệu Boléro
năm 1955, sau đó ca sĩ Dalida soạn lại
lời Pháp Histoire D' Un Amour 1957. Những ca khúc thể điệu Boléro trên rất được giới mộ điệu âm nhạc thời đó
yêu thích. Riêng Ca khúc Xóm Đêm được viết năm 1961 theo điệu Boléro
Rumba. Lời như một bài thơ, ý diễn tả tình người thắm thiết trong cái xóm nghèo : «Đường về canh thâu, đêm
khuya ngõ sâu như không mầu. Qua chênh vênh có bao mái đầu, hắt hiu vàng ánh
điện câu... »
Về
cấu trúc và giai điệu ca khúc này khác với điệu Rumba khiêu vũ của Cuba và
những thể điệu Boléro sau này. Đây là một thể điệu hòa giữa Rumba mềm mại của
Cuba và Boléro dìu dặt man mát buồn gần gũi với dân ca Việt Nam. Giai điệu có
chút âm hưởng dòng nhạc luyến láy Fado vào thế kỷ 19 của những người Gitan Bồ
Đào Nha lưu lạc qua Nam Mỹ, dung hợp với dòng nhạc của những người nô
lệ da đen từ miền biển Cap Vert Tây Phi xa xôi được du nhập vào lục địa châu
Mỹ cuối thế kỷ 19. Nhịp điệu là nỗi lòng của những thân phận phiêu bạt mang nỗi
buồn u uẩn hoài vọng như tiếng khóc hòa với sóng biển lẫn tiếng đàn giây nên
buồn ray rứt !
Trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương ông viết theo cảm xúc chân thật của mình mà không theo nhu cầu của thị trường. Ông viết theo giai điệu của con tim để tặng đời nhưng trong đó có chút nỗi lòng của mình Buồn nhiều hơn Vui như một tiếng thở dài ! Văn Phụng
Sinh
năn 1930 tại Hà Nội, mất năm 1999.
Nhạc
sĩ Văn Phụng sáng tác hơn 50 ca khúc đều giá trị, những nhạc phẩm đó đã vượt
thời gian vào tâm hồn bao hế hệ. Trong suốt thời gian dài từ năm 1954 đến
năm1975 ông là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất của dòng nhạc tình miền
Nam. Có thể nói nhạc sĩ Văn Phụng là người đưa những dòng nhạc bác học của
Tây Phương vào nền tân nhạc Việt Nam tạo phong cách mới ở thuở ban đầu. Đặc biệt
chất nhạc của Văn Phụng tiết tấu nhanh luôn vui tươi, những bản hùng ca mạnh
mẽ, những giai điệu trữ tình êm dịu nhẹ nhàng. Nhạc của Văn Phụng nói lên
tính lạc quan của dân tộc mặc dù thời kỳ đó quê hương đang xảy ra chiến tranh
khốc liệt. Nhạc của Văn Phụng yêu đời, yêu người, những bản hùng ca mạnh mẽ
thục dục chí làm trai của thanh niên thời chiến lên đường nhưng không hò hét,
sát máu hoặc bị lụy về thân phận con con người trước thảm cảnh ly loạn. Nghe
nhạc Văn Phụng dưa người nghe về một quê hương Việt Nam thuở thanh bình khi
xưa. Mỗi ca khúc là một cảnh sắc trời quê hương trong đó có những tâm hồn
Việt chan hòa nhân ái thân thiện.
Tác
phẩm đầu tay :Ô Mê Ly, Ta Vui Ca Vang
Những nhạc phẩn tiêu biểu :
Ô
Mê Ly, Bức Họa Đồng Quê, Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn, , Xuân Họp Mặt, Mưa, Trăng
Sơn Cước, Suối Tóc, Tiếng Dương Cầm, Xuân miền Nam, Ave Maria, Giã Từ Đêm
Mưa, Nhớ Bến Đà Giang, Tiếng Hát Với Cung Đàn, Các Anh Đi, Bóng Người Đi, Ghé
Bến Sài Gòn, Sương Thu, Thuyền Xưa Bến Cũ, Trăng Sáng Vườn Che, Trăng
Sơn Cước, Vó Câu Muôn Dặm, Tiếng Hát Đ ường Xa, Tiếng Vang Trên Đồi, Tình,
Đàn Trong Đêm Vắng,Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn, Trở Về Huế, Yêu…
Trầm Tử Thiêng Sinh ngày 1 tháng 10 năam 1937 ở Đại Lộc, Quảng Nam, mất ngày 25 tháng 1 năm 2000 tại Califotnia, Hoa Kỳ. Ông sáng tác trên 50 ca khúc đều hay, trong đó có Tình quê hương, Tình mẹ và Tình yêu lứa đôi được ẩn chứa trong Tình quê hương. Dù sinh trưởng nơi miền Trung có dòng sông Thu Bồn nhưng ông là một nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc vàng đậm chất phù sa Cửu Long giai đoạn 1954 - 1975 tại miền Nam. Năm 1966 Trầm Tử Thiêng nhập ngũ, ông ở trong ban sáng tác thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thời gian đó ông viết nhưững ca khúc về lính như: Quân Trường Vang Tiếng Gọi, Đêm Di Hành, Mưa Trên Poncho. . Từ năm 1970, ông làm việc trong ngành Phát thanh Học đường cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trầm Tử Thiêng cũng tham gia vào phong trào Du ca Việt Nam. Ra hải ngoại ông là cố vấn ban chấp hành Hội Ký giả Việt Nam Hải ngoại 2 nhiêm kỳ 1996 - 2000. Cuối năm 1999, ông cùng các bạn văn nghệ sĩ sáng tác lập Thư viện Việt Nam tại Little Saigon. Những nhạc phẩm tiêu biểu : Bài hương Ca Vô Tận, Trộm Nhìn Nhau,
Con
Quốc Việt Nam,
Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy, Bảy Ngàn
|
|||||||||||
--
TRAN
NANG PHUNG
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for Comment