LÁ
THƯ ÚC CHÂU
TS
NGUYỄN NAM SƠN thực hiện
Kính
mời
HỒ
TẤN VINH
---------- Forwarded message ----------
From: Son Ng. <
Date: 2017-05-28 9:53 GMT+10:00
Subject: NNS = LaThuUcChau: Trang Thơ Nhạc cuối Tuần (28 May 17)
To:
From: Son Ng. <
Date: 2017-05-28 9:53 GMT+10:00
Subject: NNS = LaThuUcChau: Trang Thơ Nhạc cuối Tuần (28 May 17)
To:
Lá Thư Úc Châu
Trang Thơ Nhạc cuối Tuần (cuối tháng 5)
1. Tình Thắm Duyên Quê: Sơn Tuyền - Mạnh Đình
https://www.youtube.com/watch ?v=yxUYWWCkNj0
2. Anh Biết Em Đi Chẳng Trở Về: Anh Bằng - Vũ Khanh
https://vid.me/ettq
3. Bài Không Tên Cuối Cùng: Vũ Thành An - Elvis Phương
https://vid.me/vY6m
4. Gõ Cửa Trái Tim: Vinh Sử - Quang Lê - Mai Thiên Vân
https://vid.me/CmIm
5. Lời Cỏ May: Lê An Tuyên - Phạm Phương Thảo
https://www.youtube.com/watch ?v=6wWxKPFvupc
https://www.youtube.com/watch
2. Anh Biết Em Đi Chẳng Trở Về: Anh Bằng - Vũ Khanh
https://vid.me/ettq
3. Bài Không Tên Cuối Cùng: Vũ Thành An - Elvis Phương
https://vid.me/vY6m
4. Gõ Cửa Trái Tim: Vinh Sử - Quang Lê - Mai Thiên Vân
https://vid.me/CmIm
5. Lời Cỏ May: Lê An Tuyên - Phạm Phương Thảo
https://www.youtube.com/watch
Tình thân,
NNS
.............................. .............................. .............................. ............
..............................
I. Chuyện Xã hội &
Thời sự
1. Song Chi: Hoang tưởng hay tự ru ngủ mình,
ru ngủ nhân dân?
Từ trước đến giờ chuyện các quan chức, chính khách Việt Nam cứ mở miệng ra phát biểu là lại khiến cho dân chúng phải chửi vì sự dốt nát, quan liêu, thiếu thực tế, xa rời dân chúng, hoặc nói lấy được, bất cần ai tin v.v… không có gì lạ.
Nhưng dạo gần đây căn bệnh "tự sướng", "mơ giữa ban ngày" của các quan lại càng có vẻ tăng lên. Hết ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mơ "Sài Gòn phải là hòn ngọc chiếu sáng biển Đông" (chứ không phải là "hòn ngọc Viễn Đông" nhé), Hà Nội đẹp như Paris ; ông Đoàn Ngọc Hải, Phó chủ tịch UBND quận 1 thì muốn xây dựng quận 1 thành một Singapore thu nhỏ trong lòng Thành phố Hồ Chí Minh ; rồi bây giờ ông Tân Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân lại mơ xây dựng "Thành phố Hồ Chí Minh thành không gian khởi nghiệp như thung lũng Silicon" bên Mỹ !
Không biết các quan chức, chính khách Việt Nam khi "hồn nhiên" phát biểu như vậy có biết rằng các câu nói của các ông ngay lập tức được lan truyền, chia sẻ trên facebook, trên các trang blog của nhiều người, để cười cợt vì sự "khôi hài đen" của nó ?
Là do họ thiếu thực tế, hoang tưởng, hay ngược lại, họ biết tình hình đất nước ra sao nhưng chính vì tình trạng đất nước bết bát quá mà người ta thường quay lưng trốn tránh sự thật bằng những giấc mơ, bởi mơ không mất tiền, dại gì không mơ ?
Không biết. Nhưng người dân khi nghe những ước mơ của các ông thì chỉ thấy vừa hài hước vừa đắng nghét trong lòng. Chính đảng cộng sản đã lôi kéo cả dân tộc này vào hai cuộc chiến tranh đánh Pháp đuổi Mỹ kéo dài hàng chục năm với cái giả phải trả quá đắt, để rồi bây giờ lại mơ trở thành phiên bản của các nước mà các ông từng đánh đuổi nói riêng và các nước tư bản nói chung mà ngày xưa các ông thóa mạ hết lời. Các ông từng gọi đó là các nước "tư bản giãy chết", rằng hệ thống các nước tư bản sẽ sụp đổ một ngày không xa, còn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới là tinh hoa, là tương lai của nhân loại… Bây giờ hệ thống nào tự sụp đổ không kèn không trống, trong khi vài ba nước còn lại thì cũng dần dần tự chuyển biến, thay ruột chỉ còn cái vỏ…thì chúng ta đã quá rõ.
Chỉ chua xót cho cái giá mà dân tộc này, đất nước này đã và vẫn đang phải trả vì sự mê muội đó.
Nhưng mặt khác, cũng có ý kiến ngược lại, rằng chúng ta-người dân phải nên mừng vì các quan chức khi so sánh, ao ước những mô hình cho Việt Nam đã toàn chọn những thành phố, quốc gia đi theo mô hình tư bản, tự do, dân chủ. Trong khi các thế hệ lãnh đạo thời trước cái gì cũng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là nhất. Những câu thơ của nhà thơ của Việt Phương phản ánh ý thức của nhiều thế hệ người Việt trước kia, đến nay nhiều người vẫn nhớ "Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ. Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ".
Có một thời cái gì của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng là nhất, cái gì của Mỹ và các nước tư bản cũng là xấu xa. Rồi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ sụp đổ, rồi Việt Nam mở cửa, những thông tin, hàng hóa… từ bên ngoài tràn vào. Bây giờ dù vẫn luôn khẳng định đảng ta kiên quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, dù không biết đến hết thế kỷ này đã có hay chưa (lời ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng), dù vẫn nhất nhất rập khuôn theo mô hình hệ thống chính trị của Trung Quốc, nhưng khi xài hàng hóa thì quan chức Việt Nam vẫn chuộng hàng Mỹ hàng Nhật hơn hàng Tàu, khi đau ốm phải đi chữa bệnh thì chạy sang Sing sang Mỹ, cho con du học hay mua nhà, làm ăn thì toàn chọn các nước Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Canada… Và bây giờ khi ao ước Sài Gòn, Hà Nội... trở thành cái gì thì đó là Singapore, là Paris… chứ không phải Bắc Kinh hay Thượng Hải !
Như thế là họ đã tự chuyển biến, hay nói theo ngôn ngữ của chính họ, là "diễn biến hòa bình" từ lâu rồi, và đó là xu thế chung không thễ cưỡng lại. Họ chỉ còn cố giữ lại cái hệ thống độc đảng độc tài này để tiếp tuc đè đầu cưỡi cổ nhân dân, tiếp tục vơ vét mà thôi.
Như thế là phải mừng cho sự tự chuyển biến ấy chứ. Chứ nếu lại vẫn tình nghĩa cũ mà mơ Sài Gòn, Hà Nội thành… Moscow ; hoặc hai nhà nước Việt-Trung với mô hình hệ thống giống y nhau, tình cảm hai đảng nồng nàn gắn bó, thì mơ Sài Gòn, Hà Nội được như… Bắc Kinh, Thượng Hải, Việt Nam được trở thành một nước tự trị của Trung Hoa, thì còn khốn nạn hơn ! Vẫn biết rằng mơ không bị đánh thuế, nhưng nếu chỉ ngồi đó hô hào khẩu hiệu suông thì chỉ là một hình thức "thủ dâm tinh thần", vừa ru ngủ chính mình và ru ngủ, lừa mị nhân dân.
Với người Sài Gòn, Hà Nội bây giờ chắc đa phần chỉ ao ước làm sao để thành phố bớt ngập lụt, phố thành sông vào mùa mưa, làm sao bớt nạn kẹt xe, bớt ô nhiễm, bớt thực phẩm bẩn tràn lan ăn gì cũng sợ, bớt nạn cướp giật hoàng hành… đã là hạnh phúc lắm rồi. Thế nhưng mấy đời Bí thư Sài Gòn, Hà Nội vẫn không làm được những điều căn bản này thì mơ chi cho xa.
Đó là chưa nói muốn Sài Gòn thành Singapore, Hà Nội thành Paris, Việt Nam thành… Thái Lan hay Nam Hàn thì điều kiện trước hết là đảng cộng sản phải bị giải thể hoặc tự giải tán, Việt Nam phải thay đổi mô hình thể chế chính trị thành một nước tự do, dân chủ, đa đảng pháp trị như các nước tiến bộ khác trên thế giới, thì những ước mơ đó mới có cơ thành hiện thực, chứ đảng cộng sản các ông mà còn nắm quyền thì chỉ thêm 5 năm nữa thôi Việt Nam còn thua cả Cambodia và Sài Gòn, Hà Nội thì còn tiếp tục xuống cấp hơn nữa !
Thành tích phá hoại của đảng và nhà nước cộng sản như thế nào trong suốt bao nhiêu năm qua chúng ta đã quá rõ. (Nguồn : RFA, 21/05/2017 (SongChi's blog))
Từ trước đến giờ chuyện các quan chức, chính khách Việt Nam cứ mở miệng ra phát biểu là lại khiến cho dân chúng phải chửi vì sự dốt nát, quan liêu, thiếu thực tế, xa rời dân chúng, hoặc nói lấy được, bất cần ai tin v.v… không có gì lạ.
Nhưng dạo gần đây căn bệnh "tự sướng", "mơ giữa ban ngày" của các quan lại càng có vẻ tăng lên. Hết ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mơ "Sài Gòn phải là hòn ngọc chiếu sáng biển Đông" (chứ không phải là "hòn ngọc Viễn Đông" nhé), Hà Nội đẹp như Paris ; ông Đoàn Ngọc Hải, Phó chủ tịch UBND quận 1 thì muốn xây dựng quận 1 thành một Singapore thu nhỏ trong lòng Thành phố Hồ Chí Minh ; rồi bây giờ ông Tân Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân lại mơ xây dựng "Thành phố Hồ Chí Minh thành không gian khởi nghiệp như thung lũng Silicon" bên Mỹ !
Không biết các quan chức, chính khách Việt Nam khi "hồn nhiên" phát biểu như vậy có biết rằng các câu nói của các ông ngay lập tức được lan truyền, chia sẻ trên facebook, trên các trang blog của nhiều người, để cười cợt vì sự "khôi hài đen" của nó ?
Là do họ thiếu thực tế, hoang tưởng, hay ngược lại, họ biết tình hình đất nước ra sao nhưng chính vì tình trạng đất nước bết bát quá mà người ta thường quay lưng trốn tránh sự thật bằng những giấc mơ, bởi mơ không mất tiền, dại gì không mơ ?
Không biết. Nhưng người dân khi nghe những ước mơ của các ông thì chỉ thấy vừa hài hước vừa đắng nghét trong lòng. Chính đảng cộng sản đã lôi kéo cả dân tộc này vào hai cuộc chiến tranh đánh Pháp đuổi Mỹ kéo dài hàng chục năm với cái giả phải trả quá đắt, để rồi bây giờ lại mơ trở thành phiên bản của các nước mà các ông từng đánh đuổi nói riêng và các nước tư bản nói chung mà ngày xưa các ông thóa mạ hết lời. Các ông từng gọi đó là các nước "tư bản giãy chết", rằng hệ thống các nước tư bản sẽ sụp đổ một ngày không xa, còn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới là tinh hoa, là tương lai của nhân loại… Bây giờ hệ thống nào tự sụp đổ không kèn không trống, trong khi vài ba nước còn lại thì cũng dần dần tự chuyển biến, thay ruột chỉ còn cái vỏ…thì chúng ta đã quá rõ.
Chỉ chua xót cho cái giá mà dân tộc này, đất nước này đã và vẫn đang phải trả vì sự mê muội đó.
Nhưng mặt khác, cũng có ý kiến ngược lại, rằng chúng ta-người dân phải nên mừng vì các quan chức khi so sánh, ao ước những mô hình cho Việt Nam đã toàn chọn những thành phố, quốc gia đi theo mô hình tư bản, tự do, dân chủ. Trong khi các thế hệ lãnh đạo thời trước cái gì cũng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là nhất. Những câu thơ của nhà thơ của Việt Phương phản ánh ý thức của nhiều thế hệ người Việt trước kia, đến nay nhiều người vẫn nhớ "Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ. Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ".
Có một thời cái gì của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng là nhất, cái gì của Mỹ và các nước tư bản cũng là xấu xa. Rồi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ sụp đổ, rồi Việt Nam mở cửa, những thông tin, hàng hóa… từ bên ngoài tràn vào. Bây giờ dù vẫn luôn khẳng định đảng ta kiên quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, dù không biết đến hết thế kỷ này đã có hay chưa (lời ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng), dù vẫn nhất nhất rập khuôn theo mô hình hệ thống chính trị của Trung Quốc, nhưng khi xài hàng hóa thì quan chức Việt Nam vẫn chuộng hàng Mỹ hàng Nhật hơn hàng Tàu, khi đau ốm phải đi chữa bệnh thì chạy sang Sing sang Mỹ, cho con du học hay mua nhà, làm ăn thì toàn chọn các nước Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Canada… Và bây giờ khi ao ước Sài Gòn, Hà Nội... trở thành cái gì thì đó là Singapore, là Paris… chứ không phải Bắc Kinh hay Thượng Hải !
Như thế là họ đã tự chuyển biến, hay nói theo ngôn ngữ của chính họ, là "diễn biến hòa bình" từ lâu rồi, và đó là xu thế chung không thễ cưỡng lại. Họ chỉ còn cố giữ lại cái hệ thống độc đảng độc tài này để tiếp tuc đè đầu cưỡi cổ nhân dân, tiếp tục vơ vét mà thôi.
Như thế là phải mừng cho sự tự chuyển biến ấy chứ. Chứ nếu lại vẫn tình nghĩa cũ mà mơ Sài Gòn, Hà Nội thành… Moscow ; hoặc hai nhà nước Việt-Trung với mô hình hệ thống giống y nhau, tình cảm hai đảng nồng nàn gắn bó, thì mơ Sài Gòn, Hà Nội được như… Bắc Kinh, Thượng Hải, Việt Nam được trở thành một nước tự trị của Trung Hoa, thì còn khốn nạn hơn ! Vẫn biết rằng mơ không bị đánh thuế, nhưng nếu chỉ ngồi đó hô hào khẩu hiệu suông thì chỉ là một hình thức "thủ dâm tinh thần", vừa ru ngủ chính mình và ru ngủ, lừa mị nhân dân.
Với người Sài Gòn, Hà Nội bây giờ chắc đa phần chỉ ao ước làm sao để thành phố bớt ngập lụt, phố thành sông vào mùa mưa, làm sao bớt nạn kẹt xe, bớt ô nhiễm, bớt thực phẩm bẩn tràn lan ăn gì cũng sợ, bớt nạn cướp giật hoàng hành… đã là hạnh phúc lắm rồi. Thế nhưng mấy đời Bí thư Sài Gòn, Hà Nội vẫn không làm được những điều căn bản này thì mơ chi cho xa.
Đó là chưa nói muốn Sài Gòn thành Singapore, Hà Nội thành Paris, Việt Nam thành… Thái Lan hay Nam Hàn thì điều kiện trước hết là đảng cộng sản phải bị giải thể hoặc tự giải tán, Việt Nam phải thay đổi mô hình thể chế chính trị thành một nước tự do, dân chủ, đa đảng pháp trị như các nước tiến bộ khác trên thế giới, thì những ước mơ đó mới có cơ thành hiện thực, chứ đảng cộng sản các ông mà còn nắm quyền thì chỉ thêm 5 năm nữa thôi Việt Nam còn thua cả Cambodia và Sài Gòn, Hà Nội thì còn tiếp tục xuống cấp hơn nữa !
Thành tích phá hoại của đảng và nhà nước cộng sản như thế nào trong suốt bao nhiêu năm qua chúng ta đã quá rõ. (Nguồn : RFA, 21/05/2017 (SongChi's blog))
2. Bùi Văn Phú: Đối thoại để làm gì?
Từ nhiều năm qua người Việt đã mơ ước một ngày họ có thể nói lên quan điểm của mình mà không lo sợ bị bắt giam, trấn áp hay sách nhiễu.
Trong quá khứ, trước các kỳ Đại hội Đảng hay để chuẩn bị sửa Hiến pháp, Hà Nội đã mời gọi dân, và cả người Việt hải ngoại, tham gia góp ý vào tiến trình kiến tạo đất nước. Dù có nhiều đề nghị hay kiến nghị, nhưng những tiếng nói không đồng lòng với đảng, không cùng quan điểm với nhà nước đã không được quan tâm. Trái lại, nhiều người bất đồng chính kiến ở Việt Nam ngày nay vẫn còn ở trong tù, hay khi vừa nói lên quan điểm thì bị ngăn chặn, bị côn đồ hành hung.
Nhiều tiếng nói bất đồng đang chịu án tù như Nguyễn Văn Đài, Trần Huỳnh Duy Thức, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Trần Kim Anh, Lê Thanh Tùng và cả trăm người khác.
Nhiều người đã phải chọn con đường lưu vong như Đoàn Viết Hoạt, Đoàn Thanh Liêm, Trần Khải Thanh Thủy, Điều Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ.
Bên ngoài xã hội, nhiều người bị quản chế, bị ngăn cản tiếp xúc với đại diện các tổ chức nhân quyền, các dân cử từ những quốc gia tự do dân chủ hay thường xuyên bị sách nhiễu, không cho tham gia hội họp như Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Quang A, Lê Công Định, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Đoan Trang, Phạm Thanh Nghiên.
Khi bị thế giới đặt vấn đề, quan chức Hà Nội luôn đưa ra quan điểm là những người đó không phải ở tù vì bất đồng quan điểm mà vì họ vi phạm Điều 79 : hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 88 : tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa, hay Điều 258 : lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm quyền lợi nhà nước ; trong khi thực tế họ chỉ phát biểu quan điểm bất đồng với nhà nước.
Vài năm trước, khi có tu chính Hiến pháp, người dân cũng được mời gọi đóng góp ý kiến để Hiến pháp phản ánh được thực tế hơn. Nhưng những đề nghị của hàng trăm trí thức, các lãnh đạo tôn giáo liên quan đến sở hữu đất đai, nền tảng kinh tế, tự do nhân quyền, bỏ Điều 4, bỏ hệ tư tưởng Mác-Lê, bỏ độc quyền cai trị để đưa đến đa nguyên chính trị, thì chỉ nhận được sự im lặng. Nhà nước không quan tâm đến những góp ý như thế, truyền thông trong nước dưới sự kiểm soát của Ban Tuyên giáo cũng chẳng lên tiếng hay đưa ra tranh luận về những kiến nghị này.
Những năm gần đây, nhiều vấn đề gây bức xúc trong dân, từ việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào hải phận Việt Nam, tranh chấp đất đai giữa dân và nhà nước, dân oan khiếu kiện, cho đến việc ngư dân thường xuyên bị tàu lạ tấn công ngoài khơi hay sự kiện nhà máy thép Formosa thải chất độc gây thiệt hại cho ngư dân và làm ô nhiễm biển.
Đã có nhiều kiến nghị với sự hưởng ứng của hàng nghìn người, thuộc mọi thành phần trong xã hội được gửi đến lãnh đạo. Nhưng mọi yêu cầu đã không được nhà nước hồi đáp.
Bỗng dưng tuần trước đảng lại gợi ý muốn đối thoại với những người có ý kiến khác biệt.
Ông Võ Văn Thưởng, Trưởng ban Tuyên giáo trung ương, trong một hội nghị của đảng hôm 18/5 có nói : "Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý".
Tin đưa như thế. Nhưng những ngày qua không thấy truyền thông nhà nước có bình luận, phân tích về phát biểu của người đứng đầu ngành tuyên giáo, là cơ quan có trách nhiệm giáo dục cán bộ và quần chúng về đường hướng lãnh đạo của đảng.
Nội bộ đảng có thực sự muốn mở ra những đối thoại và đối thoại với ai, về những vấn đề gì của đất nước thì chưa rõ. Ông Thưởng chỉ mới gợi ý và cho biết còn đang chờ Ban bí thư Đảng đưa ra đề xuất thực hiện.
Lời phát biểu của ông Thưởng chỉ làm gợn sóng dư luận hải ngoại, làm cho một số người Việt ở nước ngoài lạc quan. Nhưng đa số vẫn e dè. Trong quá khứ, ngay cả giữa những người cộng sản với nhau mà khi đứng ở phía đối lập vẫn phải vào tù hay lưu vong. Vụ án xét lại cách đây nửa thế kỷ đến nay vẫn có nhiều nạn nhân hay thân nhân của họ muốn được minh oan.
Năm 1967, khi nội bộ đảng có những ý kiến trái chiều về vận hành chiến tranh và đã chia làm hai phe, phe chủ trương hòa hoãn theo Liên Xô và phe quyết tâm tiến hành chiến tranh theo Trung Quốc. Kết quả phía Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng thế khiến nhiều người phải vào tù như Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Lê Trọng Nghĩa ; mất chức : Ung Văn Khiêm, Lê Liêm ; thất sủng : Võ Nguyên Giáp ; hay phải sống lưu vong : Nguyễn Minh Cần, Lê Vinh Quốc, Đỗ Văn Doãn.
Năm 1979, Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan vì bất đồng quan điểm cũng đã phải lưu vong sang Trung Quốc.
Trương Như Tảng, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, vì không đồng ý với chính sách Bắc hóa miền Nam của Hà Nội cũng đã vượt biển tị nạn.
Thực tâm đối thoại ?
Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ thực tâm muốn đối thoại với những người có ý kiến khác biệt. Khai trừ trong nội bộ. Hay cho đi nước ngoài như những cựu tù cải tạo.
Đối với người Việt hải ngoại, Hà Nội thường dẫn chứng vài trường hợp để đề cao ý hướng đối thoại, chủ trương hòa hợp hòa giải của nhà nước.
Về chính trị, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Phạm Thế Duyệt đã tiếp cựu lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa là Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong chuyến thăm Mỹ, ghé California có mời Tướng Kỳ đến dự tiếp tân. Tôn giáo có Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã về đối thoại với nhà nước, được tổ chức vài khoá tu học, được xây tu viện ở Lâm Đồng. Văn hoá có nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã đối thoại với nhà nước để được hồi tịch, được cấp chứng minh nhân dân, được sở hữu nhà ở.
Nhưng kết quả của những hành động đối thoại đó là gì?. Tướng Nguyễn Cao Kỳ chết không được chôn ở quê nhà. Tu viện Bát Nhã của thày Nhất Hạnh bị phá, tu sinh bị đuổi đi. Những sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy đến nay hầu hết vẫn còn bị cấm phổ biến trong nước.
Giám mục Nguyễn Thái Hợp chủ trương đối thoại với nhà nước, nhưng những lời kêu gọi của ông và của một số linh mục trong Giáo phận Vinh đòi công lý cho người dân trong khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm do Formosa cũng chẳng được nhà nước quan tâm. Trái lại những linh mục cùng dân đứng lên biểu tình đã bị vu khống, bôi nhọ.
Giáo sư Ngô Bảo Châu, nhà toán học danh tiếng của Việt Nam được nhà nước dành cho nhiều ưu đãi, nhưng năm ngoái ông cũng đã bị tấn công tinh thần trên mạng bởi những người cuồng lãnh tụ.
Theo BBC Tiếng Việt, khi giáo sư viết một câu bình luận trên FB của mình : "Có quý mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta" là ám chỉ việc tôn sùng lãnh tụ Hồ Chí Minh thì trong vòng ít giờ đã có 2 vạn "like", hàng nghìn "share" cùng nhiều phê bình, chỉ trích. Không hiểu do những áp lực từ đâu khiến ông đã phải xóa bình luận này chỉ sau hai giờ đưa lên Facebook. Giáo sư Châu đang sống ở Mỹ, chứ nếu ở quê nhà chắc cũng không tránh khỏi những nhóm tự phát kéo đến sỉ nhục và hỏi tội hay bị côn đồ hành hung.
Như thế đối thoại với lãnh đạo cộng sản lúc này để làm gì, khi vẫn còn nhiều người bị tù vì có quan điểm trái nghịch với nhà nước, khi Việt Nam chưa có tự do báo chí, tự do hội họp - là những quyền căn bản để tiếng nói đối lập với nhà nước được công khai đến với dư luận quần chúng.
Điều kiện cần có để đối thoại ?
Khi nào nhà nước đưa ra một lộ trình dân chủ hóa đất nước, với những bảo đảm cho quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, hội họp và lập hội, khi đó những người đối lập mới nên tham gia đối thoại. Vì nếu tham gia đối thoại mà những quan điểm đối lập nếu không đến được với đại chúng thì đối thoại sẽ chẳng đi đến đâu. Như thế nó chỉ là cơ hội cho nhà nước lợi dụng để tuyên truyền.
Hơn thập niên trước cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói chuyện yêu nước không phải của riêng ai và không phải chỉ có một con đường yêu nước. Nhiều người đã thể hiện tinh thần yêu nước qua phát biểu, qua xuống đường và đã phải đối diện với án tù.
Như thế gợi ý của ông Võ Văn Thưởng về đối thoại với những ý kiến khác biệt có sẽ đem lại kết quả hay không ? (Source: BBC - 25/5/17)
Từ nhiều năm qua người Việt đã mơ ước một ngày họ có thể nói lên quan điểm của mình mà không lo sợ bị bắt giam, trấn áp hay sách nhiễu.
Trong quá khứ, trước các kỳ Đại hội Đảng hay để chuẩn bị sửa Hiến pháp, Hà Nội đã mời gọi dân, và cả người Việt hải ngoại, tham gia góp ý vào tiến trình kiến tạo đất nước. Dù có nhiều đề nghị hay kiến nghị, nhưng những tiếng nói không đồng lòng với đảng, không cùng quan điểm với nhà nước đã không được quan tâm. Trái lại, nhiều người bất đồng chính kiến ở Việt Nam ngày nay vẫn còn ở trong tù, hay khi vừa nói lên quan điểm thì bị ngăn chặn, bị côn đồ hành hung.
Nhiều tiếng nói bất đồng đang chịu án tù như Nguyễn Văn Đài, Trần Huỳnh Duy Thức, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Trần Kim Anh, Lê Thanh Tùng và cả trăm người khác.
Nhiều người đã phải chọn con đường lưu vong như Đoàn Viết Hoạt, Đoàn Thanh Liêm, Trần Khải Thanh Thủy, Điều Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ.
Bên ngoài xã hội, nhiều người bị quản chế, bị ngăn cản tiếp xúc với đại diện các tổ chức nhân quyền, các dân cử từ những quốc gia tự do dân chủ hay thường xuyên bị sách nhiễu, không cho tham gia hội họp như Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Quang A, Lê Công Định, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung, Phạm Đoan Trang, Phạm Thanh Nghiên.
Khi bị thế giới đặt vấn đề, quan chức Hà Nội luôn đưa ra quan điểm là những người đó không phải ở tù vì bất đồng quan điểm mà vì họ vi phạm Điều 79 : hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Điều 88 : tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa, hay Điều 258 : lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm quyền lợi nhà nước ; trong khi thực tế họ chỉ phát biểu quan điểm bất đồng với nhà nước.
Vài năm trước, khi có tu chính Hiến pháp, người dân cũng được mời gọi đóng góp ý kiến để Hiến pháp phản ánh được thực tế hơn. Nhưng những đề nghị của hàng trăm trí thức, các lãnh đạo tôn giáo liên quan đến sở hữu đất đai, nền tảng kinh tế, tự do nhân quyền, bỏ Điều 4, bỏ hệ tư tưởng Mác-Lê, bỏ độc quyền cai trị để đưa đến đa nguyên chính trị, thì chỉ nhận được sự im lặng. Nhà nước không quan tâm đến những góp ý như thế, truyền thông trong nước dưới sự kiểm soát của Ban Tuyên giáo cũng chẳng lên tiếng hay đưa ra tranh luận về những kiến nghị này.
Những năm gần đây, nhiều vấn đề gây bức xúc trong dân, từ việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào hải phận Việt Nam, tranh chấp đất đai giữa dân và nhà nước, dân oan khiếu kiện, cho đến việc ngư dân thường xuyên bị tàu lạ tấn công ngoài khơi hay sự kiện nhà máy thép Formosa thải chất độc gây thiệt hại cho ngư dân và làm ô nhiễm biển.
Đã có nhiều kiến nghị với sự hưởng ứng của hàng nghìn người, thuộc mọi thành phần trong xã hội được gửi đến lãnh đạo. Nhưng mọi yêu cầu đã không được nhà nước hồi đáp.
Bỗng dưng tuần trước đảng lại gợi ý muốn đối thoại với những người có ý kiến khác biệt.
Ông Võ Văn Thưởng, Trưởng ban Tuyên giáo trung ương, trong một hội nghị của đảng hôm 18/5 có nói : "Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý".
Tin đưa như thế. Nhưng những ngày qua không thấy truyền thông nhà nước có bình luận, phân tích về phát biểu của người đứng đầu ngành tuyên giáo, là cơ quan có trách nhiệm giáo dục cán bộ và quần chúng về đường hướng lãnh đạo của đảng.
Nội bộ đảng có thực sự muốn mở ra những đối thoại và đối thoại với ai, về những vấn đề gì của đất nước thì chưa rõ. Ông Thưởng chỉ mới gợi ý và cho biết còn đang chờ Ban bí thư Đảng đưa ra đề xuất thực hiện.
Lời phát biểu của ông Thưởng chỉ làm gợn sóng dư luận hải ngoại, làm cho một số người Việt ở nước ngoài lạc quan. Nhưng đa số vẫn e dè. Trong quá khứ, ngay cả giữa những người cộng sản với nhau mà khi đứng ở phía đối lập vẫn phải vào tù hay lưu vong. Vụ án xét lại cách đây nửa thế kỷ đến nay vẫn có nhiều nạn nhân hay thân nhân của họ muốn được minh oan.
Năm 1967, khi nội bộ đảng có những ý kiến trái chiều về vận hành chiến tranh và đã chia làm hai phe, phe chủ trương hòa hoãn theo Liên Xô và phe quyết tâm tiến hành chiến tranh theo Trung Quốc. Kết quả phía Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng thế khiến nhiều người phải vào tù như Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Lê Trọng Nghĩa ; mất chức : Ung Văn Khiêm, Lê Liêm ; thất sủng : Võ Nguyên Giáp ; hay phải sống lưu vong : Nguyễn Minh Cần, Lê Vinh Quốc, Đỗ Văn Doãn.
Năm 1979, Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan vì bất đồng quan điểm cũng đã phải lưu vong sang Trung Quốc.
Trương Như Tảng, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, vì không đồng ý với chính sách Bắc hóa miền Nam của Hà Nội cũng đã vượt biển tị nạn.
Thực tâm đối thoại ?
Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ thực tâm muốn đối thoại với những người có ý kiến khác biệt. Khai trừ trong nội bộ. Hay cho đi nước ngoài như những cựu tù cải tạo.
Đối với người Việt hải ngoại, Hà Nội thường dẫn chứng vài trường hợp để đề cao ý hướng đối thoại, chủ trương hòa hợp hòa giải của nhà nước.
Về chính trị, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Phạm Thế Duyệt đã tiếp cựu lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa là Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong chuyến thăm Mỹ, ghé California có mời Tướng Kỳ đến dự tiếp tân. Tôn giáo có Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã về đối thoại với nhà nước, được tổ chức vài khoá tu học, được xây tu viện ở Lâm Đồng. Văn hoá có nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã đối thoại với nhà nước để được hồi tịch, được cấp chứng minh nhân dân, được sở hữu nhà ở.
Nhưng kết quả của những hành động đối thoại đó là gì?. Tướng Nguyễn Cao Kỳ chết không được chôn ở quê nhà. Tu viện Bát Nhã của thày Nhất Hạnh bị phá, tu sinh bị đuổi đi. Những sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy đến nay hầu hết vẫn còn bị cấm phổ biến trong nước.
Giám mục Nguyễn Thái Hợp chủ trương đối thoại với nhà nước, nhưng những lời kêu gọi của ông và của một số linh mục trong Giáo phận Vinh đòi công lý cho người dân trong khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm do Formosa cũng chẳng được nhà nước quan tâm. Trái lại những linh mục cùng dân đứng lên biểu tình đã bị vu khống, bôi nhọ.
Giáo sư Ngô Bảo Châu, nhà toán học danh tiếng của Việt Nam được nhà nước dành cho nhiều ưu đãi, nhưng năm ngoái ông cũng đã bị tấn công tinh thần trên mạng bởi những người cuồng lãnh tụ.
Theo BBC Tiếng Việt, khi giáo sư viết một câu bình luận trên FB của mình : "Có quý mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta" là ám chỉ việc tôn sùng lãnh tụ Hồ Chí Minh thì trong vòng ít giờ đã có 2 vạn "like", hàng nghìn "share" cùng nhiều phê bình, chỉ trích. Không hiểu do những áp lực từ đâu khiến ông đã phải xóa bình luận này chỉ sau hai giờ đưa lên Facebook. Giáo sư Châu đang sống ở Mỹ, chứ nếu ở quê nhà chắc cũng không tránh khỏi những nhóm tự phát kéo đến sỉ nhục và hỏi tội hay bị côn đồ hành hung.
Như thế đối thoại với lãnh đạo cộng sản lúc này để làm gì, khi vẫn còn nhiều người bị tù vì có quan điểm trái nghịch với nhà nước, khi Việt Nam chưa có tự do báo chí, tự do hội họp - là những quyền căn bản để tiếng nói đối lập với nhà nước được công khai đến với dư luận quần chúng.
Điều kiện cần có để đối thoại ?
Khi nào nhà nước đưa ra một lộ trình dân chủ hóa đất nước, với những bảo đảm cho quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, hội họp và lập hội, khi đó những người đối lập mới nên tham gia đối thoại. Vì nếu tham gia đối thoại mà những quan điểm đối lập nếu không đến được với đại chúng thì đối thoại sẽ chẳng đi đến đâu. Như thế nó chỉ là cơ hội cho nhà nước lợi dụng để tuyên truyền.
Hơn thập niên trước cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói chuyện yêu nước không phải của riêng ai và không phải chỉ có một con đường yêu nước. Nhiều người đã thể hiện tinh thần yêu nước qua phát biểu, qua xuống đường và đã phải đối diện với án tù.
Như thế gợi ý của ông Võ Văn Thưởng về đối thoại với những ý kiến khác biệt có sẽ đem lại kết quả hay không ? (Source: BBC - 25/5/17)
3. VietTuSaiGon: Cái ác đã làm bá chủ?
Hình ảnh một người phụ nữ ở chợ Lương Văn Can, Hải Phòng ngồi thẩn thờ trước gian hàng thịt lợn (tức thịt heo theo cách nói người miền Nam) bị tạt dầu nhớt và chất bẩn khi mang thịt lợn nhà ra chợ ngồi bán vì giá thịt lợn quá rẻ, buộc phải tự mổ bán để vớt vát chút vốn liếng làm gợi nhớ hình ảnh Nguyễn Văn Thạnh bị an ninh giả dạng tạt đầy mắm thối và chất bẩn hay nhà của ông Huỳnh Ngọc Tuấn ở Tam Kỳ, Quảng Nam bị tạt đầy chất bẩn… tất cả đều là đòn bẩn, cho dù kẻ giả danh hay kẻ ra mặt thực hiện. Và tất cả cũng đều cho thấy, cái ác đã bá chủ thiên hạ, người ta hành xử với nhau bằng tính ácvà lòng thú hận giống như ăn một gói mì tôm hay ăn một ổ bánh mì mỗi sáng. Tại sao lại nên nông nổi như vậy?
Nói cho cùng, cái ác hay sự thiện lành đều tiếm ẩn trong mỗi con người, nó cũng giống như bào tử nấm có sẵn trong tự nhiên, với thời tiết, nhiệt độ thích ứng với loại bào tử nào thì loại nấm đó sẽ mọc tỉ lệ. Khi thời tiết xấu, khí độc nhiều, đương nhiên là nấm đỏ, nấm độc sẽ mọc nhiều, ngược lại, không khí trong lành, ẩm độ vừa đủ, nấm hương, mộc nhĩ, nấm mối hay nấm rơm sẽ mọc. Cái ác và sự thiện lành trong xã hội cũng vậy, khi mà môi trường giáo dục, văn hóa, ứng xử xã hội thiếu lành mạnh, thậm chí vô luân thì nhất định người ta phải mang cái ác ra để đối đãi với nhau và đương nhiên cái ác sẽ có cơ hội trỗi dậy, mọc ra như nấm sau mưa.
Xã hội Việt Nam hiện tại, dù cố gắng che giấu kiểu gì thì cũng không thể che giấu được bản chất độc ác của người Việt Nam, sự độc ác này lan tỏa từ nhà cầm quyền đến người dân, từ những người không quyền thế cho đến những kẻ ăn trên ngồi trốc. Một sự độc ác được nhen nhóm và lưu cửu thông qua huyết hệ Cộng sản. Không thể nói khác đi được, vì!
Vì trong mỗi gia đình, mỗi xóm làng, mỗi cụm dân cư hiện nay, dấu vết của đấu tố của những năm 1950 vẫn chưa hề phai, thậm chí, khi cần, tự nó phát tác đầy đủ màu sắc của nó. Bởi tính khí của phần đông người Việt vẫn chưa bao giờ thoát khỏi tâm lý đám đông và tâm lý lệ thuộc. Nghĩa là người ta trở nên nhỏ bé và sợ hãi khi đứng đơn độc nhưng người ta dễ tạo thành cơn vĩ cuồng theo chiều hướng đám đông. Và sở dĩ tâm lý đám đông này vẫn chưa bao giờ dứt khỏi phần đông người Việt bởi lịch sử phát triển dân tộc học Việt Nam quá đặc biệt, nó trải qua ba thời kỳ: Bắc thuộc, Phong kiến và Cộng sản xã hội chủ nghĩa. Miền Nam với chế độ tư bản, dân chủ chỉ là một vệt nhỏ kéo qua chưa đầy hai mươi năm rồi chết ngúm trong một ngày 30 tháng 4, trong một biến cố lịch sử nặng nề.
Thời kỳ Bắc thuộc, có thể nói ngắn gọn là người Việt thời bấy giờ chưa hoặc không có ý thức gì về dân chủ hay quốc gia, dân tộc gì cả, mãi cho đến thời phong kiến manh nha, khi mà Khúc Thừa Dụ, rồi đến Dương Đình Nghệ, đến Ngô Quyền tổ chức những cuộc chiến chống phương Bắc, dường như ý niệm dân tộc, quốc gia nhen nhóm hình thành nhưng chỉ giới hạn trong nhóm người xuất chúng này thôi.
Đến Khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân và xưng vương thì câu chuyện quốc gia, dân tộc lại manh nha lần nữa trong ý thức hệ phong kiến, quốc gia là của vua, dân tộc cũng là của vua. Và giai đoạn phong kiến này kéo dài mãi cho đến khi vị vua thứ 13 của triều Nguyễn, tức Bảo Đại thoái vị, một giai đoạn lịch sử mới hình thành với nửa phía Nam manh nha dân chủ, nửa phía Bắc hình thành độc tài. Đến năm 1954, nửa phía Nam vĩ tuyến 17 chính thức dẫm chân lên nền dân chủ, nửa phía Bắc chính thức đi vào độc tài trên danh nghĩa “cách mạng toàn dân, cứu quốc”.
Và đến năm 1975, toàn cõi Việt Nam chính thức bước vào thời đại mới với đầy đủ bóng đêm độc tài, toàn trị, tha hóa, dối trá và hèn nhát. Cái bóng đêm đó phủ cho đến tận hôm nay, dường như càng lúc, bóng đen càng nhuộm đen tâm hồn con người, không có lối thoát nào cho dân tộc, khi mà tâm hồn Việt Nam trơ nên đen đúa, tàn độc, không những ác độc với đồng loại mà người ta ác độc với cả bản thân của họ.
Những cuộc ruồng bố, bắt người, giết người, cướp của một cách “chính danh” theo chiến dịch đấu tố, rồi đến chiến dịch Mậu Thân 1968 với hàng triệu cái chết đau đớn, chiến dịch 1975 gọi là giải phóng miền Nam, thêm hàng triệu cái chết thảm do vượt biên, chết trong trại cải tạo, chết do uất ức vỉ mất mọi thứ, chết do bị đàn áp… Nói cho cùng, Việt Nam chưa bao giờ chấm dứt tội ác. Mà động cơ mạnh nhất để giết người, cướp của (kể cả cấp độ vĩ mô và vi mô) ở đây thường là vật dục. Để cướp nhà, cướp vợ của quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, người ta sẵn sàng xuống tay, để đạt được mục đích chiến tranh, chiếm lấy miền Nam, người ta sẵn sàng xả súng không nương tay, để đạt được mục đích tận thu tài sản của người giàu, người ta sẵn sàng đấu tố một cách nhiệt tình nhất… Cuối cùng, mãi hàng trăm năm nay, hết đi từ hèn nhát, sợ sệt hay a dua đám đông, người ta chuyển sang hung tợn, hèn nhát và bầy đàn.
Và, cái ác không dừng ở chuyện đấu tố chính trị hay chuyện chiến tranh, cái ác đi vào học đường với đầy đủ máu me của nó trong trừng trang văn, từng tiết dạy công dân giáo dục hay triết học Mác – Lê nin với tư duy vật dục làm kim chỉ Nam. Để cho đến hôm nay, xã hội trở thành một tập hợp bầy đàn, những người có lương tri, còn lương tri cảm thấy lạc lỏng trong xã hội Việt Nam và những kẻ cơ hội lại tranh thủ tâm lý bầy đàn để thao túng, cát cứ.
Khi cái ác thực sự làm bá chủ, lòng nhân đạo, tình yêu thương hay đạo đức lại trở thành thứ xa xỉ, không thể dùng được trong xã hội. Con người bị cuốn cuồng trong cơn hỗn loạn và không tài nào rút chân ra khỏi nó được, bởi nó “chính danh”, bởi nó áp đặt và toàn trị, bởi nó thao túng mọi ngóc ngách từ xó xỉnh cuộc đời đến xó xỉnh tâm hồn, trí tuệ.
Khi cái ác thực sự bá chủ, cái ác trở thành sức mạnh và công cụ để nhà nước trấn áp nhân dân, trấn áp những ai bất đồng chính kiến với nhà nước, với đảng, thay vì lắng nghe, phân tích và nói lẽ phải để đổi mới, tiến bộ, người ta dùng ngay công cụ của mình là hiện thân cái ác, dùng ngay những kẻ đầu trâu mặt ngựa để đối phó nhân dân. Trường hợp Phan Sơn Hùng thách thức lương tâm, thách thức lẽ phải và thách thức đạo đức để ra tay uy hiếp, đánh đập một người phụ nữ, rồi sau đó lại tiếp tục thách thức pháp luật, thách thức lương tri giang hồ, lương tri xã hội bằng những lives stream, nó cho thấy cái ác đã thực sự bá chủ và có chỗ ngồi trong hệ thống công quyền Việt Nam hiện nay.
Cũng như trường hợp một kẻ cũng là phụ nữ, nỡ ra tay tàn độc (trường hợp này nên gọi là tàn độc!) với một phụ nữ khác chỉ vì chị này mang thịt lợn nhà ra chợ bán với giá rẻ hơn giá lợn chợ. Trong khi đó, người nuôi lợn tối kị việc giết mổ lợn mang ra chợ bán, người ta có thể giết mổ để cúng tế, ăn thịt ngày Tết nhưng mang đi bán là điều kiêng kị. Dám chấp nhận vượt qua điều kiêng kị để lấy lại chút vốn là một bước cam chịu của người nông dân bởi quá khó khăn, thị trường lợn đã xuống đến mức người nông dân hết chịu đựng được nữa. Lẽ ra phải thông cảm cho người nghèo, thậm chí giúp đỡ cho người nghèo, đằng này lại dùng thủ đoạn bỉ ổi, đổ dầu nhớt và chất dơ vào thịt của người ta. Hành vi này là hành vi của kẻ máu lạnh, của cái ác đã được kết tụ thành sỏi trong tư duy và hành động.
Hay nói cách khác, khi cái ác bá chủ thiên hạ, dường như sự lương thiện là một điều gì đó rất không tưởng và lạc lỏng, người ta sẵn sàng mang cái ác ra để đối đãi với đồng loại, với thiên nhiên và xem điều đó như ăn cơm hay uống nước. Ra nông nỗi này là do ai?
Hình ảnh một người phụ nữ ở chợ Lương Văn Can, Hải Phòng ngồi thẩn thờ trước gian hàng thịt lợn (tức thịt heo theo cách nói người miền Nam) bị tạt dầu nhớt và chất bẩn khi mang thịt lợn nhà ra chợ ngồi bán vì giá thịt lợn quá rẻ, buộc phải tự mổ bán để vớt vát chút vốn liếng làm gợi nhớ hình ảnh Nguyễn Văn Thạnh bị an ninh giả dạng tạt đầy mắm thối và chất bẩn hay nhà của ông Huỳnh Ngọc Tuấn ở Tam Kỳ, Quảng Nam bị tạt đầy chất bẩn… tất cả đều là đòn bẩn, cho dù kẻ giả danh hay kẻ ra mặt thực hiện. Và tất cả cũng đều cho thấy, cái ác đã bá chủ thiên hạ, người ta hành xử với nhau bằng tính ácvà lòng thú hận giống như ăn một gói mì tôm hay ăn một ổ bánh mì mỗi sáng. Tại sao lại nên nông nổi như vậy?
Nói cho cùng, cái ác hay sự thiện lành đều tiếm ẩn trong mỗi con người, nó cũng giống như bào tử nấm có sẵn trong tự nhiên, với thời tiết, nhiệt độ thích ứng với loại bào tử nào thì loại nấm đó sẽ mọc tỉ lệ. Khi thời tiết xấu, khí độc nhiều, đương nhiên là nấm đỏ, nấm độc sẽ mọc nhiều, ngược lại, không khí trong lành, ẩm độ vừa đủ, nấm hương, mộc nhĩ, nấm mối hay nấm rơm sẽ mọc. Cái ác và sự thiện lành trong xã hội cũng vậy, khi mà môi trường giáo dục, văn hóa, ứng xử xã hội thiếu lành mạnh, thậm chí vô luân thì nhất định người ta phải mang cái ác ra để đối đãi với nhau và đương nhiên cái ác sẽ có cơ hội trỗi dậy, mọc ra như nấm sau mưa.
Xã hội Việt Nam hiện tại, dù cố gắng che giấu kiểu gì thì cũng không thể che giấu được bản chất độc ác của người Việt Nam, sự độc ác này lan tỏa từ nhà cầm quyền đến người dân, từ những người không quyền thế cho đến những kẻ ăn trên ngồi trốc. Một sự độc ác được nhen nhóm và lưu cửu thông qua huyết hệ Cộng sản. Không thể nói khác đi được, vì!
Vì trong mỗi gia đình, mỗi xóm làng, mỗi cụm dân cư hiện nay, dấu vết của đấu tố của những năm 1950 vẫn chưa hề phai, thậm chí, khi cần, tự nó phát tác đầy đủ màu sắc của nó. Bởi tính khí của phần đông người Việt vẫn chưa bao giờ thoát khỏi tâm lý đám đông và tâm lý lệ thuộc. Nghĩa là người ta trở nên nhỏ bé và sợ hãi khi đứng đơn độc nhưng người ta dễ tạo thành cơn vĩ cuồng theo chiều hướng đám đông. Và sở dĩ tâm lý đám đông này vẫn chưa bao giờ dứt khỏi phần đông người Việt bởi lịch sử phát triển dân tộc học Việt Nam quá đặc biệt, nó trải qua ba thời kỳ: Bắc thuộc, Phong kiến và Cộng sản xã hội chủ nghĩa. Miền Nam với chế độ tư bản, dân chủ chỉ là một vệt nhỏ kéo qua chưa đầy hai mươi năm rồi chết ngúm trong một ngày 30 tháng 4, trong một biến cố lịch sử nặng nề.
Thời kỳ Bắc thuộc, có thể nói ngắn gọn là người Việt thời bấy giờ chưa hoặc không có ý thức gì về dân chủ hay quốc gia, dân tộc gì cả, mãi cho đến thời phong kiến manh nha, khi mà Khúc Thừa Dụ, rồi đến Dương Đình Nghệ, đến Ngô Quyền tổ chức những cuộc chiến chống phương Bắc, dường như ý niệm dân tộc, quốc gia nhen nhóm hình thành nhưng chỉ giới hạn trong nhóm người xuất chúng này thôi.
Đến Khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân và xưng vương thì câu chuyện quốc gia, dân tộc lại manh nha lần nữa trong ý thức hệ phong kiến, quốc gia là của vua, dân tộc cũng là của vua. Và giai đoạn phong kiến này kéo dài mãi cho đến khi vị vua thứ 13 của triều Nguyễn, tức Bảo Đại thoái vị, một giai đoạn lịch sử mới hình thành với nửa phía Nam manh nha dân chủ, nửa phía Bắc hình thành độc tài. Đến năm 1954, nửa phía Nam vĩ tuyến 17 chính thức dẫm chân lên nền dân chủ, nửa phía Bắc chính thức đi vào độc tài trên danh nghĩa “cách mạng toàn dân, cứu quốc”.
Và đến năm 1975, toàn cõi Việt Nam chính thức bước vào thời đại mới với đầy đủ bóng đêm độc tài, toàn trị, tha hóa, dối trá và hèn nhát. Cái bóng đêm đó phủ cho đến tận hôm nay, dường như càng lúc, bóng đen càng nhuộm đen tâm hồn con người, không có lối thoát nào cho dân tộc, khi mà tâm hồn Việt Nam trơ nên đen đúa, tàn độc, không những ác độc với đồng loại mà người ta ác độc với cả bản thân của họ.
Những cuộc ruồng bố, bắt người, giết người, cướp của một cách “chính danh” theo chiến dịch đấu tố, rồi đến chiến dịch Mậu Thân 1968 với hàng triệu cái chết đau đớn, chiến dịch 1975 gọi là giải phóng miền Nam, thêm hàng triệu cái chết thảm do vượt biên, chết trong trại cải tạo, chết do uất ức vỉ mất mọi thứ, chết do bị đàn áp… Nói cho cùng, Việt Nam chưa bao giờ chấm dứt tội ác. Mà động cơ mạnh nhất để giết người, cướp của (kể cả cấp độ vĩ mô và vi mô) ở đây thường là vật dục. Để cướp nhà, cướp vợ của quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, người ta sẵn sàng xuống tay, để đạt được mục đích chiến tranh, chiếm lấy miền Nam, người ta sẵn sàng xả súng không nương tay, để đạt được mục đích tận thu tài sản của người giàu, người ta sẵn sàng đấu tố một cách nhiệt tình nhất… Cuối cùng, mãi hàng trăm năm nay, hết đi từ hèn nhát, sợ sệt hay a dua đám đông, người ta chuyển sang hung tợn, hèn nhát và bầy đàn.
Và, cái ác không dừng ở chuyện đấu tố chính trị hay chuyện chiến tranh, cái ác đi vào học đường với đầy đủ máu me của nó trong trừng trang văn, từng tiết dạy công dân giáo dục hay triết học Mác – Lê nin với tư duy vật dục làm kim chỉ Nam. Để cho đến hôm nay, xã hội trở thành một tập hợp bầy đàn, những người có lương tri, còn lương tri cảm thấy lạc lỏng trong xã hội Việt Nam và những kẻ cơ hội lại tranh thủ tâm lý bầy đàn để thao túng, cát cứ.
Khi cái ác thực sự làm bá chủ, lòng nhân đạo, tình yêu thương hay đạo đức lại trở thành thứ xa xỉ, không thể dùng được trong xã hội. Con người bị cuốn cuồng trong cơn hỗn loạn và không tài nào rút chân ra khỏi nó được, bởi nó “chính danh”, bởi nó áp đặt và toàn trị, bởi nó thao túng mọi ngóc ngách từ xó xỉnh cuộc đời đến xó xỉnh tâm hồn, trí tuệ.
Khi cái ác thực sự bá chủ, cái ác trở thành sức mạnh và công cụ để nhà nước trấn áp nhân dân, trấn áp những ai bất đồng chính kiến với nhà nước, với đảng, thay vì lắng nghe, phân tích và nói lẽ phải để đổi mới, tiến bộ, người ta dùng ngay công cụ của mình là hiện thân cái ác, dùng ngay những kẻ đầu trâu mặt ngựa để đối phó nhân dân. Trường hợp Phan Sơn Hùng thách thức lương tâm, thách thức lẽ phải và thách thức đạo đức để ra tay uy hiếp, đánh đập một người phụ nữ, rồi sau đó lại tiếp tục thách thức pháp luật, thách thức lương tri giang hồ, lương tri xã hội bằng những lives stream, nó cho thấy cái ác đã thực sự bá chủ và có chỗ ngồi trong hệ thống công quyền Việt Nam hiện nay.
Cũng như trường hợp một kẻ cũng là phụ nữ, nỡ ra tay tàn độc (trường hợp này nên gọi là tàn độc!) với một phụ nữ khác chỉ vì chị này mang thịt lợn nhà ra chợ bán với giá rẻ hơn giá lợn chợ. Trong khi đó, người nuôi lợn tối kị việc giết mổ lợn mang ra chợ bán, người ta có thể giết mổ để cúng tế, ăn thịt ngày Tết nhưng mang đi bán là điều kiêng kị. Dám chấp nhận vượt qua điều kiêng kị để lấy lại chút vốn là một bước cam chịu của người nông dân bởi quá khó khăn, thị trường lợn đã xuống đến mức người nông dân hết chịu đựng được nữa. Lẽ ra phải thông cảm cho người nghèo, thậm chí giúp đỡ cho người nghèo, đằng này lại dùng thủ đoạn bỉ ổi, đổ dầu nhớt và chất dơ vào thịt của người ta. Hành vi này là hành vi của kẻ máu lạnh, của cái ác đã được kết tụ thành sỏi trong tư duy và hành động.
Hay nói cách khác, khi cái ác bá chủ thiên hạ, dường như sự lương thiện là một điều gì đó rất không tưởng và lạc lỏng, người ta sẵn sàng mang cái ác ra để đối đãi với đồng loại, với thiên nhiên và xem điều đó như ăn cơm hay uống nước. Ra nông nỗi này là do ai?
4. Bùi Tín: Ý nghĩa của 3 tập hồ sơ Luật Nhân
quyền Magnitsky
Tổng thống B. Obama đã ký ban hành Luật Nhân Quyền Tòan Cầu ngày 23/12/2016, quy định những kẻ vi phạm Nhân quyền và Tham nhũng lớn ở mọi nước sẽ bị cấm vào Hoa Kỳ và tài sản của họ nếu có ở Hoa Kỳ sẽ có thể bị đóng băng, phong tỏa.
Sergei Magnitsky là một luật sư tiến bộ Ukraina bị chính quyền Nga bắt giam, ốm nặng không được chữa chạy và chết trong tù sau 358 ngày bị giam giữ, khi ông mới 37 tuổi. Ông là tiêu biểu cho nạn nhân của một chế độ độc đoán chà đạp Nhân quyền.
Gần đây, tổ chức BPSOS – Boat People SOS (Cứu trợ thuyền nhân) ở Hoa Kỳ đã ra sức sưu tầm danh sách các quan chức trong nước tham gia đàn áp công dân đòi quyền sống, vi phạm nghiêm trọng Nhân quyền, và đã lập nên hồ sơ của 168 người, sẽ lần lượt chuyển cho Ủy Ban Nhân Quyền của Quốc Hội và của Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ cũng như tổ chức Nhân quyền của Liên Hợp Quốc…Tuy Tổng thống D. Trump không mấy tỏ ra mặn mà với nhân quyền, nhưng trong Quốc Hội và Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ vẫn có nhiều người coi Dân Chủ và Nhân Quyền là những giá trị cơ bản cần bảo vệ và phát huy khắp thế giới.
Đến nay BPSOS đã lần lượt gửi đến Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ 3 bản danh sách các quan chức, nhân viên thuộc chính quyền Việt Nam vi phạm Nhân quyền. Ba (3) danh sách về các vụ việc ở Gia Lai, Đà Nẵng, Đồng Tháp.
Danh sách 1 gồm có 14 người trong Vụ đàn áp Mục sư Nguyễn Công Chính và bà vợ Trần Thị Hồng ở Gia Lai; đánh đập tàn bạo, tra tấn Mục sư và vợ, bằng roi, bằng điện, bột hạt tiêu, bắt giam hàng năm không xét xử, rồi tuyên án Mục sư Chính 11 năm tù. Các bị cáo gồm: Đại tá Lâu, Giám dốc Công An Gia Lai, Đại tá Long Phó Giám đốc CôngAn Gia Lai, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận Hoa Lư, Trưởng Công an Xã Hoa Lư, Lê Văn Hà Chánh án và các thẩm phán Tòa án Gia Lai, Chánh án Phạm Bá Sơn và cá thẩm phán tòa Phúc thẩm Gia Lai, Trung tá Anh, trưởng trại tù T20 Gia Lai và những tên quản giáo tham gia tra tấn tù nhân.
Danh sách 2 gồm có 21 nhân vật tham gia cưỡng chế cướp đất, tra tấn, đánh chết người dân (anh Nguyễn Thành Năm) ở Cồn Dầu Đà Nẵng, phá họai tang lễ Cụ Đặng Thị Tân 93 tuổi. Đầu danh sách là ông Nguyễn Bá Thanh nguyên Bí thư kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Đà Nẵng (đã chết nhưng vẫn có tố cáo con và người thân sang Hoa Kỳ du học và mang tài sản bất minh theo). Tiếp theo là ông Trần Văn Minh, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Đà Nẵng; Vũ Văn Thương , Ủy ban Nhân dân huyện Cẩm Lệ; Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường; Phó Giám đốc Công An Đà Nẵng; Trủởng Công an huyện Cẩm Lệ; Lê Viết Tân Tổng Giám đốc SUN Group; bà Tân Thị Thu Dung Chánh án Tòa án quận Cẩm lệ, người không cho Luật sư Cù Huy Hà Vũ đến tòa tham gia; Nguyễn Thị Canh, Chánh án Tòa Phúc thẩm…
Danh sách 3 gồm có 19 người trong vụ đàn áp nhóm Hòa Hảo (anh Nguyễn Bắc Truyền) ở Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp ; Bọn này quyết phá không cho anh Truyền cưới cô Bùi Thị Kim Phượng. Họ còn bắt và xử tù cô Bùi Minh Hằng, cô Nguyễn Thúy Quỳnh và anh Nguyễn văn Minh lên thăm anh Truyền (3 người này đã mãn hạn tù). Đó là : Thiếu tướng Nguyễn Minh Thuấn, Giám đốc Công An Đồng Tháp, Đại Tá Nguyễn Thành Long,Trưởng Công An huyện Lấp Vò, Thượng tá phó Công An huyện Lấp Vò, Thiếu tá Chót, Công an xã Long Hưng, Nguyễn Thành Thơ, Chánh án Tòa án tỉnh Đồng Tháp, Trần Văn Ngọc Vui Viện Kiểm sát Đồng Tháp, Nguyễn Hòa Bình Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối Cao.
Chắc chắn vài ngày nữa, trước khi Tổng Thống D. Trump gặp ông Nguyễn Xuân Phúc, ông sẽ được báo cáo kỹ về bản báo cáo Nhân quyền Việt Nam 2016, về 3 danh sách theo Luật Magnitsky trên đây.
Tôi đã từng gặp Ts Nguyễn Đình Thắng, Tổng giám đốc kiêm Chủ tịch BPSOS . Anh rất năng động, tháo vát, có bề dày kinh nghiệm, họat động chú ý đến sao cho có hiệu quả thiết thực, không tốn sức uổng công. Anh thắt chặt được hai mối quan hệ anh cho là sinh tử, trước hết là gắn bó với các Tổ chức Nhân quyền ở Quốc Hội, Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ và ở Liên Hợp Quốc, một bên là liên hệ chặt với các tổ chức xã hội dân sự trong nước, để có được danh sánh 168 quan chức phạm tội nhân quyền, với lý lịch cụ thể, hành vi tỷ mỷ, cả hình ảnh căn cước và hình ảnh liên quan. Thật đáng mừng cho phong trào Dân Chủ và Nhân quyền nước ta. Những kẻ độc đoán và bọn tay sai đàn áp người yêu nước, từ tướng, tá Bộ Công An cũng như những Chánh án, thẩm phán xử án theo lệnh kẻ ác từ nay phải coi chừng, dè dặt, nể sợ luật quốc tế cũng như nể sợ sự căm ghét khinh bỉ của nhân dân luôn có lòng nhân hậu và chuộng công lý. Bùi Tín (Blog VOA)
Tổng thống B. Obama đã ký ban hành Luật Nhân Quyền Tòan Cầu ngày 23/12/2016, quy định những kẻ vi phạm Nhân quyền và Tham nhũng lớn ở mọi nước sẽ bị cấm vào Hoa Kỳ và tài sản của họ nếu có ở Hoa Kỳ sẽ có thể bị đóng băng, phong tỏa.
Sergei Magnitsky là một luật sư tiến bộ Ukraina bị chính quyền Nga bắt giam, ốm nặng không được chữa chạy và chết trong tù sau 358 ngày bị giam giữ, khi ông mới 37 tuổi. Ông là tiêu biểu cho nạn nhân của một chế độ độc đoán chà đạp Nhân quyền.
Gần đây, tổ chức BPSOS – Boat People SOS (Cứu trợ thuyền nhân) ở Hoa Kỳ đã ra sức sưu tầm danh sách các quan chức trong nước tham gia đàn áp công dân đòi quyền sống, vi phạm nghiêm trọng Nhân quyền, và đã lập nên hồ sơ của 168 người, sẽ lần lượt chuyển cho Ủy Ban Nhân Quyền của Quốc Hội và của Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ cũng như tổ chức Nhân quyền của Liên Hợp Quốc…Tuy Tổng thống D. Trump không mấy tỏ ra mặn mà với nhân quyền, nhưng trong Quốc Hội và Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ vẫn có nhiều người coi Dân Chủ và Nhân Quyền là những giá trị cơ bản cần bảo vệ và phát huy khắp thế giới.
Đến nay BPSOS đã lần lượt gửi đến Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ 3 bản danh sách các quan chức, nhân viên thuộc chính quyền Việt Nam vi phạm Nhân quyền. Ba (3) danh sách về các vụ việc ở Gia Lai, Đà Nẵng, Đồng Tháp.
Danh sách 1 gồm có 14 người trong Vụ đàn áp Mục sư Nguyễn Công Chính và bà vợ Trần Thị Hồng ở Gia Lai; đánh đập tàn bạo, tra tấn Mục sư và vợ, bằng roi, bằng điện, bột hạt tiêu, bắt giam hàng năm không xét xử, rồi tuyên án Mục sư Chính 11 năm tù. Các bị cáo gồm: Đại tá Lâu, Giám dốc Công An Gia Lai, Đại tá Long Phó Giám đốc CôngAn Gia Lai, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận Hoa Lư, Trưởng Công an Xã Hoa Lư, Lê Văn Hà Chánh án và các thẩm phán Tòa án Gia Lai, Chánh án Phạm Bá Sơn và cá thẩm phán tòa Phúc thẩm Gia Lai, Trung tá Anh, trưởng trại tù T20 Gia Lai và những tên quản giáo tham gia tra tấn tù nhân.
Danh sách 2 gồm có 21 nhân vật tham gia cưỡng chế cướp đất, tra tấn, đánh chết người dân (anh Nguyễn Thành Năm) ở Cồn Dầu Đà Nẵng, phá họai tang lễ Cụ Đặng Thị Tân 93 tuổi. Đầu danh sách là ông Nguyễn Bá Thanh nguyên Bí thư kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Đà Nẵng (đã chết nhưng vẫn có tố cáo con và người thân sang Hoa Kỳ du học và mang tài sản bất minh theo). Tiếp theo là ông Trần Văn Minh, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Đà Nẵng; Vũ Văn Thương , Ủy ban Nhân dân huyện Cẩm Lệ; Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường; Phó Giám đốc Công An Đà Nẵng; Trủởng Công an huyện Cẩm Lệ; Lê Viết Tân Tổng Giám đốc SUN Group; bà Tân Thị Thu Dung Chánh án Tòa án quận Cẩm lệ, người không cho Luật sư Cù Huy Hà Vũ đến tòa tham gia; Nguyễn Thị Canh, Chánh án Tòa Phúc thẩm…
Danh sách 3 gồm có 19 người trong vụ đàn áp nhóm Hòa Hảo (anh Nguyễn Bắc Truyền) ở Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp ; Bọn này quyết phá không cho anh Truyền cưới cô Bùi Thị Kim Phượng. Họ còn bắt và xử tù cô Bùi Minh Hằng, cô Nguyễn Thúy Quỳnh và anh Nguyễn văn Minh lên thăm anh Truyền (3 người này đã mãn hạn tù). Đó là : Thiếu tướng Nguyễn Minh Thuấn, Giám đốc Công An Đồng Tháp, Đại Tá Nguyễn Thành Long,Trưởng Công An huyện Lấp Vò, Thượng tá phó Công An huyện Lấp Vò, Thiếu tá Chót, Công an xã Long Hưng, Nguyễn Thành Thơ, Chánh án Tòa án tỉnh Đồng Tháp, Trần Văn Ngọc Vui Viện Kiểm sát Đồng Tháp, Nguyễn Hòa Bình Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối Cao.
Chắc chắn vài ngày nữa, trước khi Tổng Thống D. Trump gặp ông Nguyễn Xuân Phúc, ông sẽ được báo cáo kỹ về bản báo cáo Nhân quyền Việt Nam 2016, về 3 danh sách theo Luật Magnitsky trên đây.
Tôi đã từng gặp Ts Nguyễn Đình Thắng, Tổng giám đốc kiêm Chủ tịch BPSOS . Anh rất năng động, tháo vát, có bề dày kinh nghiệm, họat động chú ý đến sao cho có hiệu quả thiết thực, không tốn sức uổng công. Anh thắt chặt được hai mối quan hệ anh cho là sinh tử, trước hết là gắn bó với các Tổ chức Nhân quyền ở Quốc Hội, Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ và ở Liên Hợp Quốc, một bên là liên hệ chặt với các tổ chức xã hội dân sự trong nước, để có được danh sánh 168 quan chức phạm tội nhân quyền, với lý lịch cụ thể, hành vi tỷ mỷ, cả hình ảnh căn cước và hình ảnh liên quan. Thật đáng mừng cho phong trào Dân Chủ và Nhân quyền nước ta. Những kẻ độc đoán và bọn tay sai đàn áp người yêu nước, từ tướng, tá Bộ Công An cũng như những Chánh án, thẩm phán xử án theo lệnh kẻ ác từ nay phải coi chừng, dè dặt, nể sợ luật quốc tế cũng như nể sợ sự căm ghét khinh bỉ của nhân dân luôn có lòng nhân hậu và chuộng công lý. Bùi Tín (Blog VOA)
*** GSV ANDREW ĐỖ: Kêu Gọi Tòa Bạch Ốc
Chú Tâm Đến Những Vi Phạm Nhân Quyền Tại VIỆT NAM - Vào dịp Lãnh Đạo Cộng Sản
VN đến tiếp kiến Tổng Thống Hoa Kỳ.
Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Quận Cam, Luật Sư Andrew Đỗ Hôm thứ Năm 25, tháng 5, 2017 đã gởi văn thư chính thức đến Cố Vấn Cao Cấp của Tổng Thống Hoa Kỳ, ông Jared Kushner để yêu cầu Tổng Thống Donald Trump lưu ý đến những vi phạm nhân quyền trầm trọng của chính quyền Cộng Sản Việt Nam, nhân dịp Thủ Tướng VN Nguyễn Xuân Phúc đến tiếp kiến Tổng Thống Donald Trump dự trù vào ngày 31 tháng 5, 2017 tới đây.
Trong bức thư, Giám Sát Viên đã nêu lên các sự kiện mà nhà cầm quyền Hà Nội đã cố tình vi phạm nhân quyền bất kể công luận quốc tế và những hậu thuẩn kinh tế của Hoa Kỳ từ nhiều năm nay, đặc biệt là việc đàn áp các nhà tranh đấu dân chủ ôn hòa trong nước, bắt giữ, giam cầm trái phép sau khi xét xử bằng một hệ thống pháp luật bất công trái với công pháp quốc tế, những vi phạm đến môi sinh và môi trường tại Việt Nam làm di hại đến đời sống của hàng triệu người dân lành Việt Nam qua nhiều thế hệ, kế tiếp là tệ nạn buôn người trái với Hiến Chương LHQ ngày càng gia tăng tại Việt Nam.
Trong thư ông viết: "...Là một giám sát viên đại diện cho Cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Trung Tâm Little Saigon, đông nhất tại hải ngoại. Tôi xin thay mặt họ để nói lên những quan ngại và chính thức phản kháng những hành vi đàn áp và vi phạm nhân quyền liên tục tại Việt Nam hy vọng Tổng Thống sẽ cùng với chúng tôi đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải tôn trọng những quyền tự do và dân chủ căn bản mà Hoa Kỳ có quyền đòi hỏi đối tác thương mại với chúng ta phải tuân thủ...".
(Giám Sát Viên Andrew Đỗ, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Quận Cam, quản trị Địa Hạt 1 Quận Cam bao gồm các thành phố Garden Grove, Fountain Valley, Midway City, Santa Ana và Westminster. Là thế hệ di dân đầu tiên người Mỹ gốc Việt đầy hảnh diện, Luật Sư Andrew Đỗ đã phục vụ với tư cách phó biện lý Quận Cam, cựu nghị viên thành phố Garden Grove và thẩm phán chỉ định Quận Cam).
Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Quận Cam, Luật Sư Andrew Đỗ Hôm thứ Năm 25, tháng 5, 2017 đã gởi văn thư chính thức đến Cố Vấn Cao Cấp của Tổng Thống Hoa Kỳ, ông Jared Kushner để yêu cầu Tổng Thống Donald Trump lưu ý đến những vi phạm nhân quyền trầm trọng của chính quyền Cộng Sản Việt Nam, nhân dịp Thủ Tướng VN Nguyễn Xuân Phúc đến tiếp kiến Tổng Thống Donald Trump dự trù vào ngày 31 tháng 5, 2017 tới đây.
Trong bức thư, Giám Sát Viên đã nêu lên các sự kiện mà nhà cầm quyền Hà Nội đã cố tình vi phạm nhân quyền bất kể công luận quốc tế và những hậu thuẩn kinh tế của Hoa Kỳ từ nhiều năm nay, đặc biệt là việc đàn áp các nhà tranh đấu dân chủ ôn hòa trong nước, bắt giữ, giam cầm trái phép sau khi xét xử bằng một hệ thống pháp luật bất công trái với công pháp quốc tế, những vi phạm đến môi sinh và môi trường tại Việt Nam làm di hại đến đời sống của hàng triệu người dân lành Việt Nam qua nhiều thế hệ, kế tiếp là tệ nạn buôn người trái với Hiến Chương LHQ ngày càng gia tăng tại Việt Nam.
Trong thư ông viết: "...Là một giám sát viên đại diện cho Cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Trung Tâm Little Saigon, đông nhất tại hải ngoại. Tôi xin thay mặt họ để nói lên những quan ngại và chính thức phản kháng những hành vi đàn áp và vi phạm nhân quyền liên tục tại Việt Nam hy vọng Tổng Thống sẽ cùng với chúng tôi đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải tôn trọng những quyền tự do và dân chủ căn bản mà Hoa Kỳ có quyền đòi hỏi đối tác thương mại với chúng ta phải tuân thủ...".
(Giám Sát Viên Andrew Đỗ, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Quận Cam, quản trị Địa Hạt 1 Quận Cam bao gồm các thành phố Garden Grove, Fountain Valley, Midway City, Santa Ana và Westminster. Là thế hệ di dân đầu tiên người Mỹ gốc Việt đầy hảnh diện, Luật Sư Andrew Đỗ đã phục vụ với tư cách phó biện lý Quận Cam, cựu nghị viên thành phố Garden Grove và thẩm phán chỉ định Quận Cam).
II. Văn Nghệ
1. Mang Viên Long: Thơ tình Hồ Chí Bửu
Thi ca có mặt cùng lúc với loài người, tuy hình thức bày tỏ ở mỗi thời kỳ không giống nhau. Có lẽ, những bài ca dao, đồng dao truyền khẩu của mỗi vùng miền trên thế giới, là sự hình thành sớm của Thi ca. Nếu tính từ Hómèros (khoảng thế kỷ thứ 7 trc CN) thì sự hiện diện của Thi ca bên đời sống đã hơn hai ngàn tám trăm năm! Nhiều nghiên cứu cho thấy thơ tình và những bản hùng ca đã được lưu truyền ngay từ thuở đầu tiên ấy!
Có một yếu tính hiển nhiên của Thi ca (không ai có thể phủ nhận) là nó luôn song hành cùng Tình Yêu! Con Người sống không thể không có Tình Yêu. Cũng vậy, Thi ca sống cũng không thể không có Tình Yêu. Không có Tình Yêu thì cả hai đều không thể tồn tại! Từ xưa, chúng ta đã được đọc hằng vạn, hằng chục vạn những bài thơ tình trên khắp thế giới, nhưng có bao giờ hết đâu? Tình Yêu vẫn luôn mới, được tiếp tục sống rực rỡ trong tâm hồn người nghệ sĩ; và đã làm tươi xanh đời sống của nhân loại!
Có lẽ bởi vậy, nhiều thế kỷ qua, Thơ Tình đã được ngưỡng mộ, tiếp nối - không ngưng nghỉ, mà mỗi thập kỷ trôi qua còn “ào ạt” hơn trên thi đàn. Có điều, chữ “Thơ Tình” tôi đang tạm dùng ở đây, phải được hiểu đúng nghĩa là Thơ Tình - nghĩa là chúng phải được bắt nguồn từ cội nguồn của Trái Tim Yêu thương, từ tấm chân tình như nhiên rộng mở, từ khối óc tinh nguyên dâng hiến, và cả từ cuộc đời thăng trầm bao nỗi gian truân; chứ không phải những trang chữ khô cứng, ước lệ, tùy tiện được “sắp xếp” bởi những kỷ thuật thô thiển, lập dị, hay “mưu cầu”! Một bài thơ được hình thành, được viết lên trang giấy, phải là một đóa hoa đúng giờ phải nở - tự nó tỏa ngát hương thơm….
Nơi đây, tôi tự giới hạn cho mình về Thơ Tình (từ những thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21) mà nghĩ rằng, trên 50 năm qua, những bài Thơ Tình đựơc giữ lại bên đời sống, được khắc ghi trong trái tim mỗi người - thật không nhiều! Thậm chí có thể đếm trên đầu ngón tay (trong muôn vạn bài thơ “đồng phục” đã được in, được “ngợi ca”, giới thiệu bằng mọi phương tiện!). Thơ tình dễ làm… Cho nên người người, nhà nhà (…) đều làm thơ tình! Nhiều năm qua, tôi rất “ngại” đọc thơ tình, bởi rất “sợ” sự ủy mị, du dương của thời cũ trăm năm trước, hay được khoát lên cái vỏ triết lý hiện đại kỳ quặt hôm nay (…). Do vậy, khó tìm ra thơ để đọc - cho dầu từ rất lâu, tôi vẫn xem những trang thơ tình hay, là một nhu cầu cần thiết cho đời sống tình cảm của mình! May mắn thay, thỉnh thoảng - tôi đã “gặp” được những bài thơ tình “như đùa, mà sự thật là như vậy” của Hồ Chí Bửu! Một phong cách thơ rất mới, rất hồn nhiên. Đọc bài thơ nầy:
Khi chán đời ta nằm quay qua phải / Cho buồng hơi đầy ắp những sân si
Khi nhớ em ta nằm quay qua trái / Cho buồng tim rung động thuở xuân thì
Khi tĩnh tâm ta nằm ngay ra giữa / Nhìn lên trần tìm kiếm một hào quang
Tìm không thấy ta quay ra nằm sấp / Đếm ngón tay cuộc tình phớt vội vàng
Đếm không hết ta bật mình ngồi dậy / Đấm ngực mình cho tim vỡ làm đôi
Tim chẳng vỡ - có cái gì động đậy / Quay bên nào thì cũng nhớ em thôi…(Không Ngủ Được)
Chỉ nói đến bốn cách nằm thôi, tác giả đã cho người đọc thấy rõ những đêm trăn trở nhớ thương, không sao chợp mắt được, rất thật!. “Quay bên nào thì cũng nhớ em thôi” - một tình yêu mênh man, sâu đậm. Hay ở bài “Độc Ẩm Chiều Cuối Năm” - đúng là “như đùa mà sự thật là như vậy” :
“Ta dụ ta, chiều nay ngồi uống rượu / Vì ngày qua đã xỉn tới mây xanh
Ta hư đốn chiều nay còn uống rượu / Bởi vì ngồi mông đít đã tê xanh.
Em có biết mấy đại gia làm toán / Cộng tới cộng lui lòi một villa
Ta dốt nát nên không thèm làm toán / Cứ yêu đời và yêu hết người ta
Em thấy không? Chiều cuối năm độc ẩm / Cũng quẩn quanh một gác nhỏ quạnh hiu
Cũng nhớ em, cũng thèm vòng tay ấm / Cũng lẽ loi và buồn hết buổi chiều
Nếu giả sử tình yêu là ly rượu / Tay cầm ly - chưa uống đã say rồi
Bởi tình yêu thì đâu cần giá thú / Vừa chạm vào đã cay xé bờ môi
Và cứ thế, trượt dài theo số phận / Ta nhủ thầm lần cuối nữa rồi thôi
Vì bất tài hay vì lưng quá cứng / Nên con đường hoạn lộ ngắm mà chơi
Chiều cuối năm, ừ thì sắp qua năm mới / Tống cựu nghênh tân say hoắc cần câu
Thiên hạ hả hê chờ giờ đại lợi / Ta chỉ nhớ em, uống rượu quên sầu
Chiều cuối năm và sắp qua năm mới / Tự dỗ mình còn dài lắm cuộc chơi
Tự dặn mình thôi đừng đùa với lửa / Một chút thôi - rượu lạt cũng quên đời..
"Đó là những lời tâm sự chí tình thốt lên một cách hồn nhiên, mà thâm sâu: Ta dốt nát nên không thèm làm toán/ Cứ yêu đời và yêu hết người ta. Và cứ mặc nhiên để cho “Thiên hạ hả hê chờ giờ đại lợi/ Ta chỉ nhớ em, uống rượu quên sầu…”.
Trong “Quà Đầu Năm Cho Em” - tác giả đã tự nhủ, rất “dễ thương”: “(…)
Ta biết em thích dòng thơ nồng cháy / Vừa ngọt ngào vừa sâu lắng yêu thương
Vừa thơ mộng nhưng cũng vừa hiện đại / Em không ưa dùng ngôn ngữ đời thường
Tưởng rất dễ nhưng mà không phải dễ / Tặng em phải từ máu của trái tim
Ta gom hết những tinh hoa trần thế / Kết vần thơ khi hoa nở bên thềm (…)
"Tình Yêu thương trong thơ hầu như luôn được thể hiện một cách chân thực, cụ thể, giản dị, mà thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc:
“Sợi tóc em rơi trên áo gối / Sợi tóc nào cột chặt hồn ta
Đêm tháng giêng sao qua rất vội / Gối vẫn còn giữ một mùi hoa
Nằm bên em đêm qua rất ngắn / Mộng chưa đầy ngày đã đến nhanh
Những giấc mơ êm đềm tĩnh lặng / Những thăng trầm lẫn chút hư danh
Sáng rửa mặt biết mình còn sống / Còn bon chen - kênh kiệu với đời
Cũng cái tật chịu chơi - hiếu động / Ngồi một mình hồn muốn ra khơi..”. (Nằm Bên Em Đêm Qua Rất Ngắn)
Tình yêu trong thơ Hồ Chí Bửu không hề thấy có bóng của sự đỏm dáng, kiểu cách, hay xưng tụng réo rắc - mà chỉ là những lời “trần tình” chơn chất, hay lời rỉ rã tâm sự của kẻ giang hồ khí cốt bị sa cơ “vì bất tài hay vì lưng quá cứng”- rất hồn nhiên:
“ Em rủ ta vào chân hụi tháng / Tức cười – ta đâu biết kinh doanh
Rồi mai mốt tiền đâu mà đóng / Tiền uống bia..còn phải để dành.
Em dụ ta vào chân hụi ngắn / Một tuần thôi - chỉ đóng một lần
Hụi mới khui, cho ta hốt trước / Sao tự nhiên túi lắm kim ngân
Ta chịu chơi nên hay liều mạng / Có tiền rồi nhậu líp ba ga
Có khi nhậu từ chiều tới sáng / Karaoke ôm ta cũng chẳng tha
Nhậu vài tháng tiền bay đâu mất / Mà mỗi tuần mỗi đóng. Hụt hơi
Tại ham chơi nên thành cố tật / Gã làm thơ chơi sém quên đời
Chắc biết ta là dân bạt mạng / Em bảo rằng tiền bạc phù du
Không có tiền - trả bằng cách khác / Giờ yêu em hay chịu đi tù ??”. (Chơi Hụi)
Bên cạnh hình bóng “Em” còn có hình ảnh cuộc đời; bên cạnh Tình Yêu em, còn có Tình Thương con người, bằng hữu, quê nhà. Bởi vậy, thơ tình Hồ Chí Bửu có cách hấp dẫn rất riêng: tuy mộc mạc mà lôi cuốn, giản dị mà chân tình, đọc không thấy chán!
“Hai đứa mình cùng bằng tuổi nhau / Ông thường nhìn xoáy những vết đau
Còn ta chó sói trong lồng sắt / Vươn móng nằm xem những vết cào (…)
…"Uống chay dưới ánh trăng suông vậy / Nhậu rắn lòng sao bỗng nhớ rùa
Thương đất thương người đâu dám quậy / Ly rượu vơi đầy với nắng mưa” (…) ”. (Thơ Tặng Bạn Rượu)
Chất “rượu” trong thơ Hồ Chí Bửu như một chất xúc tác cho Tình Yêu Thương thăng hoa chứ tuyệt nhiên không thấy lộ liễu quá đáng như một số người làm thơ tự xưng là hiện đại, hay hậu - hiện - đại. Thơ tự nó là vậy, đâu cần khoát lên cho nó một cái nhãn hiệu triết lý cao siêu?
“Rượu cay nhưng giải được sầu / Cạn ly là bước qua cầu thiên thai
Ngoảnh nhìn mây trắng còn bay / Rượu vơi đáy cốc ta đày đọa ta
Bên kia vách núi triền hoa / Bên trong danh lợi người ta thấy gì ?
Bẫy mìn nhưng vẫn bước đi / Thì ra chưa diệt sân, si, kiếp, nàn .
Ô hay là chuyện thế gian / Mềm môi rượu cạn lại càng buồn thêm
Dường như giờ mới nửa đêm / Ngước nhìn sân rộng bên thềm lá rơi…”. (Đêm Rượu Một Mình)
Tôi lại nghĩ, để có một “phong cách riêng”, (mà không phải gắng gượng chắp vá, hay phủ lên dòng chữ những gì không phải nó để ngụy tạo) là một sự tiềm ẩn tự nhiên, là “bản chất” được hình thành và nuôi dưỡng lâu xa từ “bên trong” người nghệ sĩ. Nó phải là đời sống, là hơi thở từ Trái tim muôn đời vẫn vậy! Chúng ta luôn bắt gặp “cái riêng” ấy, trong từng bài thơ của Hồ Chí Bửu, cho dù điều chia sẻ là với một “Chiến Hữu” :
“Bạn tôi. Lính sư đoàn bộ binh / Hai cánh tay đã bỏ nơi chiến trường Xuân Lộc
Hai cánh tay đã rơi trong đêm tháng 4 tàn khốc / Máu chan hòa nhuộm đỏ cả vùng quê
Thương phế binh nên cải tạo vài hôm thì cho về / Thu xếp cùng gia đình lên vùng kinh tế mới
Lên vùng kinh tế mới ngóng cổ lên mà đợi / Mua gạo xếp hàng mua thuốc được vài viên
Bệnh mẹ gì thì cũng chỉ có xuyên tâm liên / Uống riết vàng răng giống khỉ ngồi bàn độc
Có những đêm buồn ra rừng ngồi khóc / Khóc chán rồi lấy rượu thay cơm
Hơn một năm quần áo rách hết trơn / Bữa đói bữa no bữa lo sốt rét
Tàn đời rồi lo cái con kẹt / Dẫn vợ con về sống ở vỉa hè
Bởi người hiền nên trời phật chở che / Rốt cuộc anh cũng có mái nhà tranh để ở
Đi bán vé số dạo chẳng còn gì mà sợ / Hào khí hết rồi một gã tàn binh
Sáng nay gặp anh tôi thoáng giật mình / Trung úy Phan Văn Tài đây hả
Ôm chặt anh nước mắt tôi rơi lã chã / Tàn cuộc rồi ta ở phía bên thua…”
Hay là lời tâm tình cùng bằng hữu, người yêu, làng quê xưa:
“Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Thăm khu vườn lúc nhỏ của tôi xưa
Chiếc cầu khỉ mỗi chiều qua kẽo kẹt / Cánh diều bay - Thương biết mấy cho vừa
Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Mái trường xưa và kỷ niệm tinh khôi
Bạn bè cũ – Chắc đứa còn đứa mất / Ông giáo già ..biết còn nhận ra tôi..?
Tìm sự sống..tôi mất dần bản sắc / Và biến thành một người Việt lưu vong
Tìm sự sống..nghĩa là tôi đánh mất / Làm lục bình trôi dạt ở ven sông..
Nơi đất khách nhiều đêm tôi thức trắng / Đời lữ hành chừ hoài niệm cố hương
Nơi đất khách nhiều đêm tôi ngồi khóc / Quê hương ơi ! Tôi chừng đã cuối đường
Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Thăm một thời tuổi nhỏ đã lên ngôi
Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Người yêu ơi ! Mưa rớt hột bên đời..
Tôi sẽ về .. sẽ về thăm Sa Đéc / Gió chiều rơi mang hơi lúa nồng nàn
Tôi quỳ xuống nâng niu từng hạt lúa / Và tình tôi..hạnh phúc đã sang trang…”. (Như Một Nỗi Niềm)
Sau cùng - tôi nghĩ, Hồ Chí Bửu làm thơ tình không phải chỉ dành riêng cho người yêu, mà còn dành cho chính thân phận mình, bằng hữu, và cho số phận của một Quê hương buồn bã nữa!...(Quê nhà, Trung tuần tháng 1.2017)
*** THƠ TÌNH HỒ CHÍ BỬU 5 (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - chi nhánh Miền tây Nam bộ -.Chịu trách nhiệm: TRẦN QUANG QUÝ- Biên tập NGUYỄN KIM SƠN (VŨ HỒNG) -Tranh bìa & phụ bản ĐỖ DUY TUẤN - Sửa bản in:TÁC GIẢ- Mỹ thuật: QUỐC ANH - Kỹ thuật: NGUYÊN THỦY- Đề bạt : nhà văn MANG VIÊN LONG - phổ thơ thành ca khúc: ns MỘC THIÊNG (USA)).
1. Mang Viên Long: Thơ tình Hồ Chí Bửu
Thi ca có mặt cùng lúc với loài người, tuy hình thức bày tỏ ở mỗi thời kỳ không giống nhau. Có lẽ, những bài ca dao, đồng dao truyền khẩu của mỗi vùng miền trên thế giới, là sự hình thành sớm của Thi ca. Nếu tính từ Hómèros (khoảng thế kỷ thứ 7 trc CN) thì sự hiện diện của Thi ca bên đời sống đã hơn hai ngàn tám trăm năm! Nhiều nghiên cứu cho thấy thơ tình và những bản hùng ca đã được lưu truyền ngay từ thuở đầu tiên ấy!
Có một yếu tính hiển nhiên của Thi ca (không ai có thể phủ nhận) là nó luôn song hành cùng Tình Yêu! Con Người sống không thể không có Tình Yêu. Cũng vậy, Thi ca sống cũng không thể không có Tình Yêu. Không có Tình Yêu thì cả hai đều không thể tồn tại! Từ xưa, chúng ta đã được đọc hằng vạn, hằng chục vạn những bài thơ tình trên khắp thế giới, nhưng có bao giờ hết đâu? Tình Yêu vẫn luôn mới, được tiếp tục sống rực rỡ trong tâm hồn người nghệ sĩ; và đã làm tươi xanh đời sống của nhân loại!
Có lẽ bởi vậy, nhiều thế kỷ qua, Thơ Tình đã được ngưỡng mộ, tiếp nối - không ngưng nghỉ, mà mỗi thập kỷ trôi qua còn “ào ạt” hơn trên thi đàn. Có điều, chữ “Thơ Tình” tôi đang tạm dùng ở đây, phải được hiểu đúng nghĩa là Thơ Tình - nghĩa là chúng phải được bắt nguồn từ cội nguồn của Trái Tim Yêu thương, từ tấm chân tình như nhiên rộng mở, từ khối óc tinh nguyên dâng hiến, và cả từ cuộc đời thăng trầm bao nỗi gian truân; chứ không phải những trang chữ khô cứng, ước lệ, tùy tiện được “sắp xếp” bởi những kỷ thuật thô thiển, lập dị, hay “mưu cầu”! Một bài thơ được hình thành, được viết lên trang giấy, phải là một đóa hoa đúng giờ phải nở - tự nó tỏa ngát hương thơm….
Nơi đây, tôi tự giới hạn cho mình về Thơ Tình (từ những thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21) mà nghĩ rằng, trên 50 năm qua, những bài Thơ Tình đựơc giữ lại bên đời sống, được khắc ghi trong trái tim mỗi người - thật không nhiều! Thậm chí có thể đếm trên đầu ngón tay (trong muôn vạn bài thơ “đồng phục” đã được in, được “ngợi ca”, giới thiệu bằng mọi phương tiện!). Thơ tình dễ làm… Cho nên người người, nhà nhà (…) đều làm thơ tình! Nhiều năm qua, tôi rất “ngại” đọc thơ tình, bởi rất “sợ” sự ủy mị, du dương của thời cũ trăm năm trước, hay được khoát lên cái vỏ triết lý hiện đại kỳ quặt hôm nay (…). Do vậy, khó tìm ra thơ để đọc - cho dầu từ rất lâu, tôi vẫn xem những trang thơ tình hay, là một nhu cầu cần thiết cho đời sống tình cảm của mình! May mắn thay, thỉnh thoảng - tôi đã “gặp” được những bài thơ tình “như đùa, mà sự thật là như vậy” của Hồ Chí Bửu! Một phong cách thơ rất mới, rất hồn nhiên. Đọc bài thơ nầy:
Khi chán đời ta nằm quay qua phải / Cho buồng hơi đầy ắp những sân si
Khi nhớ em ta nằm quay qua trái / Cho buồng tim rung động thuở xuân thì
Khi tĩnh tâm ta nằm ngay ra giữa / Nhìn lên trần tìm kiếm một hào quang
Tìm không thấy ta quay ra nằm sấp / Đếm ngón tay cuộc tình phớt vội vàng
Đếm không hết ta bật mình ngồi dậy / Đấm ngực mình cho tim vỡ làm đôi
Tim chẳng vỡ - có cái gì động đậy / Quay bên nào thì cũng nhớ em thôi…(Không Ngủ Được)
Chỉ nói đến bốn cách nằm thôi, tác giả đã cho người đọc thấy rõ những đêm trăn trở nhớ thương, không sao chợp mắt được, rất thật!. “Quay bên nào thì cũng nhớ em thôi” - một tình yêu mênh man, sâu đậm. Hay ở bài “Độc Ẩm Chiều Cuối Năm” - đúng là “như đùa mà sự thật là như vậy” :
“Ta dụ ta, chiều nay ngồi uống rượu / Vì ngày qua đã xỉn tới mây xanh
Ta hư đốn chiều nay còn uống rượu / Bởi vì ngồi mông đít đã tê xanh.
Em có biết mấy đại gia làm toán / Cộng tới cộng lui lòi một villa
Ta dốt nát nên không thèm làm toán / Cứ yêu đời và yêu hết người ta
Em thấy không? Chiều cuối năm độc ẩm / Cũng quẩn quanh một gác nhỏ quạnh hiu
Cũng nhớ em, cũng thèm vòng tay ấm / Cũng lẽ loi và buồn hết buổi chiều
Nếu giả sử tình yêu là ly rượu / Tay cầm ly - chưa uống đã say rồi
Bởi tình yêu thì đâu cần giá thú / Vừa chạm vào đã cay xé bờ môi
Và cứ thế, trượt dài theo số phận / Ta nhủ thầm lần cuối nữa rồi thôi
Vì bất tài hay vì lưng quá cứng / Nên con đường hoạn lộ ngắm mà chơi
Chiều cuối năm, ừ thì sắp qua năm mới / Tống cựu nghênh tân say hoắc cần câu
Thiên hạ hả hê chờ giờ đại lợi / Ta chỉ nhớ em, uống rượu quên sầu
Chiều cuối năm và sắp qua năm mới / Tự dỗ mình còn dài lắm cuộc chơi
Tự dặn mình thôi đừng đùa với lửa / Một chút thôi - rượu lạt cũng quên đời..
"Đó là những lời tâm sự chí tình thốt lên một cách hồn nhiên, mà thâm sâu: Ta dốt nát nên không thèm làm toán/ Cứ yêu đời và yêu hết người ta. Và cứ mặc nhiên để cho “Thiên hạ hả hê chờ giờ đại lợi/ Ta chỉ nhớ em, uống rượu quên sầu…”.
Trong “Quà Đầu Năm Cho Em” - tác giả đã tự nhủ, rất “dễ thương”: “(…)
Ta biết em thích dòng thơ nồng cháy / Vừa ngọt ngào vừa sâu lắng yêu thương
Vừa thơ mộng nhưng cũng vừa hiện đại / Em không ưa dùng ngôn ngữ đời thường
Tưởng rất dễ nhưng mà không phải dễ / Tặng em phải từ máu của trái tim
Ta gom hết những tinh hoa trần thế / Kết vần thơ khi hoa nở bên thềm (…)
"Tình Yêu thương trong thơ hầu như luôn được thể hiện một cách chân thực, cụ thể, giản dị, mà thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc:
“Sợi tóc em rơi trên áo gối / Sợi tóc nào cột chặt hồn ta
Đêm tháng giêng sao qua rất vội / Gối vẫn còn giữ một mùi hoa
Nằm bên em đêm qua rất ngắn / Mộng chưa đầy ngày đã đến nhanh
Những giấc mơ êm đềm tĩnh lặng / Những thăng trầm lẫn chút hư danh
Sáng rửa mặt biết mình còn sống / Còn bon chen - kênh kiệu với đời
Cũng cái tật chịu chơi - hiếu động / Ngồi một mình hồn muốn ra khơi..”. (Nằm Bên Em Đêm Qua Rất Ngắn)
Tình yêu trong thơ Hồ Chí Bửu không hề thấy có bóng của sự đỏm dáng, kiểu cách, hay xưng tụng réo rắc - mà chỉ là những lời “trần tình” chơn chất, hay lời rỉ rã tâm sự của kẻ giang hồ khí cốt bị sa cơ “vì bất tài hay vì lưng quá cứng”- rất hồn nhiên:
“ Em rủ ta vào chân hụi tháng / Tức cười – ta đâu biết kinh doanh
Rồi mai mốt tiền đâu mà đóng / Tiền uống bia..còn phải để dành.
Em dụ ta vào chân hụi ngắn / Một tuần thôi - chỉ đóng một lần
Hụi mới khui, cho ta hốt trước / Sao tự nhiên túi lắm kim ngân
Ta chịu chơi nên hay liều mạng / Có tiền rồi nhậu líp ba ga
Có khi nhậu từ chiều tới sáng / Karaoke ôm ta cũng chẳng tha
Nhậu vài tháng tiền bay đâu mất / Mà mỗi tuần mỗi đóng. Hụt hơi
Tại ham chơi nên thành cố tật / Gã làm thơ chơi sém quên đời
Chắc biết ta là dân bạt mạng / Em bảo rằng tiền bạc phù du
Không có tiền - trả bằng cách khác / Giờ yêu em hay chịu đi tù ??”. (Chơi Hụi)
Bên cạnh hình bóng “Em” còn có hình ảnh cuộc đời; bên cạnh Tình Yêu em, còn có Tình Thương con người, bằng hữu, quê nhà. Bởi vậy, thơ tình Hồ Chí Bửu có cách hấp dẫn rất riêng: tuy mộc mạc mà lôi cuốn, giản dị mà chân tình, đọc không thấy chán!
“Hai đứa mình cùng bằng tuổi nhau / Ông thường nhìn xoáy những vết đau
Còn ta chó sói trong lồng sắt / Vươn móng nằm xem những vết cào (…)
…"Uống chay dưới ánh trăng suông vậy / Nhậu rắn lòng sao bỗng nhớ rùa
Thương đất thương người đâu dám quậy / Ly rượu vơi đầy với nắng mưa” (…) ”. (Thơ Tặng Bạn Rượu)
Chất “rượu” trong thơ Hồ Chí Bửu như một chất xúc tác cho Tình Yêu Thương thăng hoa chứ tuyệt nhiên không thấy lộ liễu quá đáng như một số người làm thơ tự xưng là hiện đại, hay hậu - hiện - đại. Thơ tự nó là vậy, đâu cần khoát lên cho nó một cái nhãn hiệu triết lý cao siêu?
“Rượu cay nhưng giải được sầu / Cạn ly là bước qua cầu thiên thai
Ngoảnh nhìn mây trắng còn bay / Rượu vơi đáy cốc ta đày đọa ta
Bên kia vách núi triền hoa / Bên trong danh lợi người ta thấy gì ?
Bẫy mìn nhưng vẫn bước đi / Thì ra chưa diệt sân, si, kiếp, nàn .
Ô hay là chuyện thế gian / Mềm môi rượu cạn lại càng buồn thêm
Dường như giờ mới nửa đêm / Ngước nhìn sân rộng bên thềm lá rơi…”. (Đêm Rượu Một Mình)
Tôi lại nghĩ, để có một “phong cách riêng”, (mà không phải gắng gượng chắp vá, hay phủ lên dòng chữ những gì không phải nó để ngụy tạo) là một sự tiềm ẩn tự nhiên, là “bản chất” được hình thành và nuôi dưỡng lâu xa từ “bên trong” người nghệ sĩ. Nó phải là đời sống, là hơi thở từ Trái tim muôn đời vẫn vậy! Chúng ta luôn bắt gặp “cái riêng” ấy, trong từng bài thơ của Hồ Chí Bửu, cho dù điều chia sẻ là với một “Chiến Hữu” :
“Bạn tôi. Lính sư đoàn bộ binh / Hai cánh tay đã bỏ nơi chiến trường Xuân Lộc
Hai cánh tay đã rơi trong đêm tháng 4 tàn khốc / Máu chan hòa nhuộm đỏ cả vùng quê
Thương phế binh nên cải tạo vài hôm thì cho về / Thu xếp cùng gia đình lên vùng kinh tế mới
Lên vùng kinh tế mới ngóng cổ lên mà đợi / Mua gạo xếp hàng mua thuốc được vài viên
Bệnh mẹ gì thì cũng chỉ có xuyên tâm liên / Uống riết vàng răng giống khỉ ngồi bàn độc
Có những đêm buồn ra rừng ngồi khóc / Khóc chán rồi lấy rượu thay cơm
Hơn một năm quần áo rách hết trơn / Bữa đói bữa no bữa lo sốt rét
Tàn đời rồi lo cái con kẹt / Dẫn vợ con về sống ở vỉa hè
Bởi người hiền nên trời phật chở che / Rốt cuộc anh cũng có mái nhà tranh để ở
Đi bán vé số dạo chẳng còn gì mà sợ / Hào khí hết rồi một gã tàn binh
Sáng nay gặp anh tôi thoáng giật mình / Trung úy Phan Văn Tài đây hả
Ôm chặt anh nước mắt tôi rơi lã chã / Tàn cuộc rồi ta ở phía bên thua…”
Hay là lời tâm tình cùng bằng hữu, người yêu, làng quê xưa:
“Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Thăm khu vườn lúc nhỏ của tôi xưa
Chiếc cầu khỉ mỗi chiều qua kẽo kẹt / Cánh diều bay - Thương biết mấy cho vừa
Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Mái trường xưa và kỷ niệm tinh khôi
Bạn bè cũ – Chắc đứa còn đứa mất / Ông giáo già ..biết còn nhận ra tôi..?
Tìm sự sống..tôi mất dần bản sắc / Và biến thành một người Việt lưu vong
Tìm sự sống..nghĩa là tôi đánh mất / Làm lục bình trôi dạt ở ven sông..
Nơi đất khách nhiều đêm tôi thức trắng / Đời lữ hành chừ hoài niệm cố hương
Nơi đất khách nhiều đêm tôi ngồi khóc / Quê hương ơi ! Tôi chừng đã cuối đường
Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Thăm một thời tuổi nhỏ đã lên ngôi
Mai tôi sẽ trở về thăm Sa Đéc / Người yêu ơi ! Mưa rớt hột bên đời..
Tôi sẽ về .. sẽ về thăm Sa Đéc / Gió chiều rơi mang hơi lúa nồng nàn
Tôi quỳ xuống nâng niu từng hạt lúa / Và tình tôi..hạnh phúc đã sang trang…”. (Như Một Nỗi Niềm)
Sau cùng - tôi nghĩ, Hồ Chí Bửu làm thơ tình không phải chỉ dành riêng cho người yêu, mà còn dành cho chính thân phận mình, bằng hữu, và cho số phận của một Quê hương buồn bã nữa!...(Quê nhà, Trung tuần tháng 1.2017)
*** THƠ TÌNH HỒ CHÍ BỬU 5 (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - chi nhánh Miền tây Nam bộ -.Chịu trách nhiệm: TRẦN QUANG QUÝ- Biên tập NGUYỄN KIM SƠN (VŨ HỒNG) -Tranh bìa & phụ bản ĐỖ DUY TUẤN - Sửa bản in:TÁC GIẢ- Mỹ thuật: QUỐC ANH - Kỹ thuật: NGUYÊN THỦY- Đề bạt : nhà văn MANG VIÊN LONG - phổ thơ thành ca khúc: ns MỘC THIÊNG (USA)).
2. Tiểu Tử: Làm thinh
Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là "nhà ông Lê”
Cách đây mấy năm, ông Lê – người Việt Nam độ 40 tuổi – từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con – vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi – ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng – tên Jean Marie – trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.
Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người… trong nhà! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước .v.v… Họ hay nói với nhau: "Vợ chồng ông Lê thật dễ thương".
Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm.Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài…
Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie – người quản gia – rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.
Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy". Ông Lê giới thiệu: "Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho".
Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói: "Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". Ông Jean Marie hỏi: "Còn bà cụ đâu? Sao không cùng ra đây với ông cụ?". Ông Lê trả lời như không trả lời: "Mẹ tôi ở Paris". Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con…
Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc… Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm…
Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già…
Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước – cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản – ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.
Ông thường nói: "Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết".
Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa: "Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền!".
Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói: "Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng". Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.
Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975…
Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói:
- Trời ơi! Mấy bả đi hết rồi kìa!
Ông cười:
- Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ" đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không? Tôi bình chân như vại!
Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu – cũng gốc liên khu năm như ông – đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.
Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng lá "bùa" đó không linh! Ông cũng có nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng. Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để "làm việc". Mỗi lần làm việc, họ quay ông như… con dế! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới… lộn ngược! Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc "đổi đời vĩ đại" này, con người đâu còn sống bằng lý trí: con người chỉ sống bằng bản năng thôi!
Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà…
Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói: "Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được!". Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu… Vậy mà bây giờ… bây giờ…Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông… bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.
Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng Tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng…
Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:
- Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?
- Họ đâu có đòi. Họ lấy.
- Lấy gì?
- Lấy hết tài sản của mình.
Giọng bà bỗng cao lên một nấc:
- Lấy hết tài sản?
Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:
- Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?
Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:
- Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?
- Bà chỉ kêu lên được một tiếng "Trời" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết! Yên lặng…
Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:
- Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.
- Còn luật pháp để đâu?
- Luật pháp của ai?
Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:
- Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được… để ông nuốt xuống "cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!
Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:
- Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.
- Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.
- Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng Z… toàn là bạn thân của ông không.
Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:
- Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?
Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù:
- Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì? Phải không?
Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết…
Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ… để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư… ăn cắp mang đi! Gã còn nói như ra lịnh:
- Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ?
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa: ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng!
...Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ – có ba dải nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân – và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng…v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rút" trong nhà của bếp của bồi… Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng!
Thời gian đi qua…Một hôm bà bỗng nói với ông:
- Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.
Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng " thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu... Đúng là một sự "đổi đời vĩ đại"!
Ít lâu lâu, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.
…Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng: "Cha mày!". Rồi tiếp: "Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ!" Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975…
Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái gì không ổn", nhưng ông nghĩ: "Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời". Rồi ông kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu: "Cho tụi nó chết!"
Bỗng người con hỏi:
- Còn mấy thằng tướng ngụy?
Câu hỏi đó như một ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:
- Mấy người đó thì ba không biết.
- Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun!
Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.
Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu…
Về đến nhà – ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu – ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói:
- Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.
Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê – giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt – không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư…
Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.
Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng:
- Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà…
Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi:
- Ba má định qua đây ở chơi bao lâu?
Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời:
- Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.
Người con ngạc nhiên:
- Ủa? Sao lại ở luôn? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý!
Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng: nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt: chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi…
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh:
- Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao?
- Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày ****…làm con thấy không hãnh diện chút nào hết!
Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi…
Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt – thật mệt – và chán chường – thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách "đầy đủ và trung thực"!
Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò… Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.
Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói:
- Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L . Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.
Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang:
- Ba nói thật: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.
Ông nói "xin con cho ba" , đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con…
Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư!
Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời!
Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằng trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này… Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ như hơi thở…
Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây – đã gần hai tháng – ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi…
Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết! Ông chỉ thấy toàn là bế tắc. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì: trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết! Giống như cuộc đời của ông bây giờ…Của cải: hết! Vợ con: hết! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết! Hết! Hết!
Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.
Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn…
Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn: "A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn…"
Không biết, khi hay tin, vợ con ông có nhỏ cho ông một giọt nước mắt?
**** Võ Hoài Nam
Bút hiệu: Tiểu Tử . Sanh năm : 1930 - Nguyên quán : Gò Dầu Hạ ( Tây Ninh )
- Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955. / - Dạy lý hoá trung học Pétrus Ký : 1955/1956. / - Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm 1956 đến 30/04/1975. / - Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay. / - Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d' Ivoire ( Phi Châu ) :1979/ 1982. / - Làm việc cho hãng dầu SHELL Côte d' Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp. / - Trước 1975, giữ mục biếm văn " Trò Ðời " của nhựt báo Tiến. / - Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d'Ivoire. / - Tập truyện "Những Mảnh Vụn" ( Làng Văn Toronto xuất bản ) là tập truyện đầu tay.
Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là "nhà ông Lê”
Cách đây mấy năm, ông Lê – người Việt Nam độ 40 tuổi – từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con – vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi – ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng – tên Jean Marie – trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.
Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người… trong nhà! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước .v.v… Họ hay nói với nhau: "Vợ chồng ông Lê thật dễ thương".
Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm.Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài…
Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie – người quản gia – rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.
Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy". Ông Lê giới thiệu: "Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho".
Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói: "Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". Ông Jean Marie hỏi: "Còn bà cụ đâu? Sao không cùng ra đây với ông cụ?". Ông Lê trả lời như không trả lời: "Mẹ tôi ở Paris". Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con…
Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc… Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm…
Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già…
Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước – cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản – ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.
Ông thường nói: "Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết".
Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa: "Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền!".
Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói: "Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng". Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.
Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975…
Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói:
- Trời ơi! Mấy bả đi hết rồi kìa!
Ông cười:
- Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ" đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không? Tôi bình chân như vại!
Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu – cũng gốc liên khu năm như ông – đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.
Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng lá "bùa" đó không linh! Ông cũng có nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng. Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để "làm việc". Mỗi lần làm việc, họ quay ông như… con dế! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới… lộn ngược! Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc "đổi đời vĩ đại" này, con người đâu còn sống bằng lý trí: con người chỉ sống bằng bản năng thôi!
Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà…
Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói: "Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được!". Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu… Vậy mà bây giờ… bây giờ…Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!
Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông… bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.
Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng Tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng…
Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:
- Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?
- Họ đâu có đòi. Họ lấy.
- Lấy gì?
- Lấy hết tài sản của mình.
Giọng bà bỗng cao lên một nấc:
- Lấy hết tài sản?
Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:
- Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?
Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:
- Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?
- Bà chỉ kêu lên được một tiếng "Trời" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết! Yên lặng…
Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:
- Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.
- Còn luật pháp để đâu?
- Luật pháp của ai?
Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:
- Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được… để ông nuốt xuống "cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!
Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:
- Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.
- Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.
- Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng Z… toàn là bạn thân của ông không.
Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:
- Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?
Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù:
- Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì? Phải không?
Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết…
Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ… để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư… ăn cắp mang đi! Gã còn nói như ra lịnh:
- Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ?
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa: ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng!
...Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ – có ba dải nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân – và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng…v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rút" trong nhà của bếp của bồi… Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng!
Thời gian đi qua…Một hôm bà bỗng nói với ông:
- Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.
Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng " thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu... Đúng là một sự "đổi đời vĩ đại"!
Ít lâu lâu, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.
…Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng: "Cha mày!". Rồi tiếp: "Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ!" Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975…
Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái gì không ổn", nhưng ông nghĩ: "Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời". Rồi ông kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu: "Cho tụi nó chết!"
Bỗng người con hỏi:
- Còn mấy thằng tướng ngụy?
Câu hỏi đó như một ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:
- Mấy người đó thì ba không biết.
- Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun!
Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.
Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu…
Về đến nhà – ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu – ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói:
- Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.
Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê – giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt – không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư…
Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.
Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng:
- Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà…
Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi:
- Ba má định qua đây ở chơi bao lâu?
Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời:
- Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.
Người con ngạc nhiên:
- Ủa? Sao lại ở luôn? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý!
Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng: nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt: chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi…
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh:
- Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao?
- Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày ****…làm con thấy không hãnh diện chút nào hết!
Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi…
Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt – thật mệt – và chán chường – thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách "đầy đủ và trung thực"!
Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò… Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.
Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói:
- Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L . Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.
Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang:
- Ba nói thật: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.
Ông nói "xin con cho ba" , đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con…
Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư!
Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời!
Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằng trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này… Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ như hơi thở…
Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây – đã gần hai tháng – ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi…
Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết! Ông chỉ thấy toàn là bế tắc. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì: trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết! Giống như cuộc đời của ông bây giờ…Của cải: hết! Vợ con: hết! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết! Hết! Hết!
Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.
Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn…
Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn: "A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn…"
Không biết, khi hay tin, vợ con ông có nhỏ cho ông một giọt nước mắt?
**** Võ Hoài Nam
Bút hiệu: Tiểu Tử . Sanh năm : 1930 - Nguyên quán : Gò Dầu Hạ ( Tây Ninh )
- Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955. / - Dạy lý hoá trung học Pétrus Ký : 1955/1956. / - Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm 1956 đến 30/04/1975. / - Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay. / - Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d' Ivoire ( Phi Châu ) :1979/ 1982. / - Làm việc cho hãng dầu SHELL Côte d' Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp. / - Trước 1975, giữ mục biếm văn " Trò Ðời " của nhựt báo Tiến. / - Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d'Ivoire. / - Tập truyện "Những Mảnh Vụn" ( Làng Văn Toronto xuất bản ) là tập truyện đầu tay.
.............................. .............................. .............................. ....................
Kính,
NNS
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for Comment